VỰC THẲM THUỘC ĐỊA Nước Pháp có một hệ thống thuộc địa rộng mười triệu kilômét vuông với dân số là 56 triệu người da vàng và da đen. Để "khai thác" tất cả những cái đó, ông Anbe Xarô, Bộ trưởng Bộ Thuộc địa cần có ba hay bốn tỷ phrăng. Muốn thế, ông đã "tổ chức" một chiến dịch báo chí rộng rãi và đã đọc không biết bao nhiêu là diễn văn. Ngài Bộ trưởng lại còn viết cả một pho sách dày 656 trang (giá 20 phrăng một cuốn). Trong khi chờ đợi thu được những tỷ đó, xin phép Ngài Bộ trưởng hãy cho chúng tôi bổ sung đôi chút vào những lý lẽ của Ngài. Ngân sách Nam Kỳ chẳng hạn, năm 1911, là 5.561.680 đồng (12.791.000 phrăng); năm 1912 là 7.321.817 đồng (16.840.000 phrăng). Năm 1922, ngân sách đó lên tới 12.821.325 đồng (96.169.000 phrăng). Một con tính đơn giản chỉ cho chúng ta thấy rằng giữa hai năm 1911 và 1922, trong ngân sách của thuộc địa này có một sự chênh lệch là 83.378.000 phrăng (tỷ suất hối đoái của đồng bạc hai năm đó là 2 phrăng 25 và 7 phrăng 50). Số tiền đó chạy đi đâu? Chạy vào các khoản chi về nhân viên mà thôi, vì các khoản này đã nuốt gần hết 100 phần 100 tổng số thu. Rồi hết những điên rồ này đến những sự điên rồ khác đã làm vung phí đồng tiền mà người dân An Nam đáng thương hại đã phải đổ mồ hôi nước mắt mới kiếm ra được. Hiện chúng tôi chưa biết rõ số tiền mà đức vua An Nam đã chi tiêu về việc sang du ngoạn bên Pháp đúng là bao nhiêu đồng, nhưng chúng tôi biết rằng, để đợi được ngày tốt cho con Rồng nan1) có thể ngự giá xuống tàu, người ta đã phải bồi thường phí tổn cho tàu Poóctốtxơ về bốn ngày chờ đợi, mỗi ngày 100.000 phrăng (tức là 400.000 phrăng). Tiền tàu hết 400.000 phrăng. Tiền chiêu đãi hết 240.000 phrăng (không kể tiền lương trả cho bọn cảnh sát để canh gác những người An Nam ở Pháp) 77.600 phrăng để trả tiền ăn ở tại Mácxây cho số lính khố xanh An Nam dùng để bồng súng chào Cụ lớn Bộ trưởng và Hoàng thượng. Vì nói đến Mácxây, nên nhân tiện chúng ta hãy xem thử cuộc triển lãm thuộc địa ở đây đã tổn phí cho chúng ta biết bao nhiêu. Trước hết, và ngoài những kẻ thần thế ở chính quốc ra, người ta còn cho mời ba chục viên chức cao cấp ở các thuộc địa về, - bọn này hằng ngày phè phỡn ở Cannơbie mà vẫn được lĩnh phụ cấp cả ở Triển lãm lẫn ở thuộc địa. Riêng Đông Dương phải bỏ ra 12 triệu cho cuộc triển lãm đó. Và các bạn có biết người ta đã chi tiêu số tiền đó như thế nào không? Đây là một thí dụ: Cái việc gọi là dựng lên mô hình các cung điện Ăngco đã làm tốn mất 3000 mét khối gỗ xây dựng, giá mỗi mét là 400 hay 500 phrăng. Tổng cộng: 1 triệu 200 nghìn đến 1 triệu 500 nghìn phrăng. Còn những việc vung phí khác nữa. Để chuyên chở quan Toàn quyền, mà chỉ dùng các xe hơi và những cỗ xe ngựa thì cũng chưa đủ. Ngài cần phải có một toa xe đặc biệt nữa kia, việc sắp xếp toa xe đó tổn phí cho công khố 125.350 phrăng. Trong vòng mười một tháng hoạt động, Cục kinh tế Đông Dương đã làm cho ngân sách Đông Dương hao hụt một số tiền là 464.000 phrăng. Tại Trường thuộc địa, nơi đào tạo những "nhà đi khai hoá" sau này, 44 giáo sư đã được đài thọ để dạy từ 30 đến 35 học viên, lại bao nhiêu là nghìn phrăng nữa. Sở thanh tra thường trực các công trình phòng thủ thuộc địa hằng năm tốn cho ngân sách hết 758.168 phrăng. Thế mà các ngài thanh tra thì không bao giờ rời khỏi Pari, và đối với các thuộc địa thì các ngài cũng không hiểu biết gì hơn là hiểu biết việc trên mặt trăng. Nếu đến các thuộc địa khác, thì ở đâu, chúng ta cũng thấy một tình trạng tệ hại như vậy. Để đón tiếp một phái đoàn "kinh tế" bán chính thức, kho bạc Máctiních "vợi đi" mất 400.000 phrăng. Trong vòng mười năm, ngân sách Marốc đã từ 17 triệu tăng lên tới 290 triệu phrăng, mặc dầu người ta đã giảm đi 30% các khoản chi tiêu cho bản xứ, tức là những khoản chi tiêu có thể đem lại lợi ích cho dân bản xứ. Đó là số tiền hàng triệu và thậm chí hàng tỷ mà nếu người ta biết cách tìm thì có lẽ người ta sẽ kiếm ra được một cách dễ dàng. Nhưng Ngài Bộ trưởng lại cứ muốn gõ vào dân bản xứ. NGUYỄN ÁI QUỐC Xin hỏi Có phải vì quá nhiều tính nhân đạo, như ông Xarô đã nhiều lần tuyên bố, mà người ta đã bắt các phạm nhân ở nhà tù Nha Trang (Trung Kỳ) phải ăn khan, nghĩa là ăn cơm mà không được uống nước không? Có phải người ta đã quét tanhtuyađiốt lên mũi các phạm nhân để dễ nhận ra họ khi họ vượt ngục không? NGUYỄN ÁI QUỐC. Báo L'Humanité, ngày 9-1-1923. ============================ NHỮNG NGƯỜI BẢN XỨ ĐƯỢC ƯA CHUỘNG Năm 1604, một người Anh tên là Sếchxpia vốn là một nhà văn chuyên nghiệp, ông ta có nhã ý đưa ra một vở kịch mà vai chính là một người da đen. Người da đen này tên gọi Ôtenlô, quả là một anh hùng, một anh hùng thật sự anh hùng. Ôtenlô đã từng chinh chiến nhiều, nhưng không phải là đánh Cácpăngchiê, cũng không phải vì anh là người được ông Đianhơ tuyển mộ, cũng không phải vì anh là người dưới trướng của tướng Mănggianh, vả lại hồi đó vẫn chưa nổ ra cuộc chiến tranh vì công lý - mà là đánh những cường quốc hiếu chiến ở châu Âu và châu Phi. Ôtenlô làm thống soái của quận công xứ Vênêxi. Cứ theo lời ông Viviani nói thì trên mái tóc xoăn của Ôtenlô đã có biết bao nhiêu vòng hoa chiến thắng. Nhưng chiến công lớn nhất của Ôtenlô là đã thắng được Đêxđêmônia. Đêxđêmônia không phải là một thành phố của bọn bôsơ, cũng không phải là một thuộc địa. Đó chỉ là tên một cô gái dịu dàng, xinh xắn, đầy hạnh phúc, con của nguyên lão nghị viện Brabantiô. Ôtenlô đã chiếm được trái tim nàng bằng cách kể lại cho nàng nghe lịch sử cảm động của đời mình, những trận đánh vĩ đại, những trận vây thành dài đằng đẵng, những chiến công rực rỡ, tóm lại là những chuyện tán tỉnh hay ho gì đó! Biết cha mình vốn chức tước như thế thì sẵn có nhiều thành kiến, nhất là thành kiến chủng tộc, nên nàng Đêxđêmônia hiền hậu chỉ một lòng nghe theo tiếng gọi của tình yêu, nàng quyết lấy chàng da đen làm chồng mà không cần đến ý kiến của cha. Trong vở kịch này, những người da trắng như tay thám tử Iagô và anh chàng Rôđrigô bị khinh bỉ, đều không đóng một vai gì choáng lắm; chính họ lại là những vai đen tối nhất. Song cái đó chẳng can gì đến chúng ta. 310 năm đã trôi qua. Người bản xứ lại được đưa lên sân khấu: nhưng đây là sân khấu chiến tranh1). Tác giả lần này giấu biệt tên tuổi, tìm cũng chẳng thấy, song các vai diễn,- anh hùng hay không- nhưng vì quá nhập vai của mình nên phần đông đã nằm lại trên sân khấu. Thật là một tấn bi kịch! Năm 1922, lại thấy xuất hiện những người bản xứ được ưa chuộng. Ta không nói đến Batuala, con người được phong tặng và Xiki, kẻ ân nhân của khoa học làm gì. Ta chỉ nói đến những người bản xứ đã thích ứng được, hoặc được thích thú. Bị trói gô vào cột buồm tàu và được đưa đi làm quân tình nguyện ở châu Âu, đánh phường man rợ để bảo vệ văn minh, nhưng một khi đến xứ văn minh rồi thì những người bản xứ của ông Têry lại được cái thú tha hồ nếm "trái cây trong vườn cấm". Những người bản xứ còn sống sót sau cuộc tàn sát năm 1914 cũng như những người bản xứ còn sống sót sau đại chiến 1914-1918 đều có thể tự hào rằng vì công lý và nền dân chủ của chủng tộc cao đẳng, họ không những đã hiến đời mình, xương máu mình, mà còn hiến cả niềm tin của mình nữa. Ông Sếchxpia trước kia lấy làm hài lòng thấy người dân bản xứ trong vở kịch của mình đã đàng hoàng lấy được cô gái mẫu quốc. Còn ông Têry ngày nay thì chỉ nhận thấy có một điều là người bản xứ của ông rất đắc lực để góp phần làm cho dân số phình lên bằng cách làm phình bụng các cô nàng da trắng. Ông Xasa Ghitơry còn đi xa hơn nữa. Ông muốn người bản xứ phải được văn minh hoàn toàn. Ông muốn họ phải cắm sừng các ông chồng da trắng cơ! Ông đã được hoàn toàn toại nguyện, vì chín tháng sau cuộc "chinh phục" bà Mácgrít Đênoayê đã sinh hạ được một cậu bé bản xứ. Nhưng chúng ta lấy làm tiếc rằng Đênoayê đã không hoan nghênh chú bé bản xứ đó cho lắm. Vốn là một nhà yêu nước từ đầu đến chân, nên ông ta muốn rằng chú bé màu da "sôcôla" kia ra đời giá đừng có nhẵn nhụi và bé nhỏ như thế, mà lại là một người râu ria xồm xoàm, ba lô trên lưng, súng trên vai để bảo vệ đất nước, thì quý biết chừng nào. Ngay cả trong các trang tiểu thuyết đăng trên báo, người bản xứ cũng đã giành được địa vị của mình. Ông Angiabe - ấy xin lỗi, ông Anbe Giăng chứ - đã chẳng kể chuyện rằng ở Hội chợ Mácxây có một chàng An Nam kia làm nghề kéo xe đã lọt được vào mắt xanh của một bà đầm xinh đẹp nọ. Sau khi đi thăm Hội chợ về, bà bèn cho gọi anh xe đến phòng ngủ lộng lẫy của bà. Và vân vân ... Người yêu bị cắm sừng của bà bỗng nhiên tới. Bối rối, lẩn núp, v.v.. Nhưng cái chính của câu chuyện lại ở chỗ khác kia. Nguyên là chàng công tử kia đã đánh cắp được một viên ngọc bích bày ở gian thờ của Đông Dương và đến để khoe với người ngọc của mình. (Ôi! lương thiện vậy thay!). Người An Nam kia đứng nấp đằng sau trông thấy quả tang hành vi đầy tội lỗi ấy, liền nhảy ra đánh cho anh chàng ăn cắp ngã gục, rồi mang lễ vật quý đó về bàn thờ. Không kể các điệu nhạc khiêu vũ và các cuộc Hội chợ thuộc địa đã làm cho anh em thuộc địa chúng ta tự hào một cách chính đáng, chúng ta lại còn lấy làm sung sướng được biết rằng từ sang năm trở đi, tất cả các bà đầm thuộc giới lịch sự sẽ mang một cái gì của chúng ta trên người và trong người họ; các cửa hàng thời trang lớn ở Pari, sang xuân tới, sẽ tung ra những kiểu vải thuộc địa và kiểu quần áo thuộc địa. Người ta sẽ đặt cho những bộ áo mặc trong nhà và các áo khác đủ thứ tên nào là: Thị Ba, Bămbara, Uôlốp, Luphơlúp, v.v.. Hỡi những người con của thuộc địa! Ngày vinh quang đã tới rồi. Nguyễn Ái Quốc Báo Le Paria, số 10, ngày 15-1-1923. ============================ THƯ NGỎ GỬI ÔNG LÊÔNG ÁCSIMBÔ Nghị sĩ hạt Đrômơ. Báo cáo viên về Ngân sách thuộc địa, Uỷ viên Hội đồng thuộc địa tối cao Thưa ông, Trong bài diễn văn đọc tại Hạ nghị viện, ông có nói rằng, nếu muốn thì ông có thể vạch trần những chuyện xấu xa ở thuộc địa ra; nhưng ông thấy tốt hơn là ỉm đi không nói đến những tội nặng tội nhẹ mà các nhà khai hoá của ông đã phạm ở các thuộc địa. Đó là quyền của ông, và điều đó chỉ liên quan đến ông, đến lương tâm ông và đến những cử tri của ông thôi. Đối với chúng tôi, những người đã từng chịu khổ và hiện vẫn đang hằng ngày chịu khổ vì những "ân huệ" của chủ nghĩa thực dân, thì chúng tôi chẳng cần đến ông mới biết được những cái ấy. Nhưng chính ông đã "phóng đại" khi ông viết trên báo Rappel30 rằng những sự việc mà ông Béctôn vạch ra, đều là sai hoặc phóng đại! Trước hết, chính ngay ông Bộ trưởng Bộ Thuộc địa cũng đã buộc phải thừa nhận rằng: "Tình trạng tư tưởng khinh rẻ sinh mệnh người bản xứ vẫn đang còn". Và ông ta đã "không hề chối cãi một sự việc tàn nhẫn nào", mà nghị sĩ Boanớp đã vạch ra. Sau nữa, thưa ông ácsimbô, liệu ông có thể chối cãi được rằng, trong những năm vừa qua, - tức là sau cuộc chiến tranh "vì công lý"-, đã có đến 80 vạn người bản xứ "tình nguyện" đến làm việc hoặc bỏ mình trên đất Pháp, trong lúc đó thì các nhà khai hoá của ông đã ăn cắp, lường gạt, giết hại hoặc thiêu sống (và chắc chắn là không bị trị tội) những người An Nam, người Tuynidi, hay người Xênêgan? Ông còn viết tiếp rằng những hành vi bất công ở Pháp còn nhiều hơn ở các thuộc địa. Thế thì thưa ông ácsimbô, hãy cho phép tôi nói rằng, không nên có cao vọng đem những bài học về bình đẳng hoặc công lý đi dạy cho người khác, khi người ta không thực hiện được những bài học đó ở nước mình. Đó là cái lôgích sơ đẳng nhất, phải không ông? Theo ông, những hành vi và cử chỉ của các quan cai trị thuộc địa của ông đều đã được các phủ toàn quyền và Bộ Thuộc địa thừa biết, nhận xét và kiểm tra rồi. Vậy, ắt phải là một trong hai điều sau đây: hoặc là vì ông đãng trí nên đã quên mất những tên như Bôđoanh, Đáclơ, Luycaxơ và biết bao nhiêu tên khác nữa, hợp thành đám hảo hán đã làm rạng rỡ và vẻ vang cho bộ cai trị thuộc địa của ông; chúng đã làm những điều đại gian ác, thế mà chỉ bị trừng phạt bằng cách thăng chức và thưởng huân chương thôi. Hoặc là ông đã ngang nhiên chế giễu độc giả của ông. Ông nói rằng, về mặt thuộc địa, nếu nước Pháp có phạm lỗi thì chẳng qua là do có quá nhiều tinh thần cao cả đấy thôi. Thưa ông ácsimbô, xin ông cho chúng tôi biết có phải vì tinh thần cao cả ấy mà người ta tước mất của người bản xứ tất cả mọi quyền ngôn luận, đi lại, v.v. không? Phải chăng cũng vì tinh thần ấy mà người ta buộc họ phải chịu cái thân phận dân bản xứ hèn mọn, mà người ta tước hết ruộng đất của họ để cho bọn xâm lăng, và sau đó buộc họ phải lao động như kẻ nô lệ? Chính ông đã nói rằng giống người Tahiti vì nghiện rượu mà đã chết mòn dần và hiện đang đi đến diệt vong. Phải chăng cũng vì quá ư cao cả mà các ông đã tìm đủ cách để làm cho người An Nam say khướt với rượu cồn của các ông và trở nên u mê, đần độn với thuốc phiện của các ông? Sau cùng, ông nói đến "bổn phận", đến "nhân đạo" và "khai hoá"! Vậy bổn phận ấy là cái gì? Ông đã đem phô bày trong suốt cả bài diễn văn của ông rồi. Đó là thị trường, là cạnh tranh, là lợi tức, là đặc quyền. Buôn bán, tài chính, đó là những cái tượng trưng cho lòng nhân đạo của các ông. Sưu thuế, lao dịch, bóc lột nặng nề, - công cuộc khai hoá của các ông, tóm lại là thế đó! Thưa ông ácsimbô, trong lúc đợi cho ông có "một chức tước hiển vinh nhất mà người ta có thể mơ ước đến" thì tôi xin phép nói rằng, nếu trước kia Víchto Huygô biết là hiện nay ông viết ra những đ...iều như thế trên tờ báo của ông ta, thì ông ta đã không sáng lập ra nó. Mong ông, v.v.. Nguyễn Ái Quốc Báo Le Paria, số 10, ngày 19-1-1923. ============================ SỰ LIÊM KHIẾT THỰC DÂN Tin sau đây chúng tôi trích ở tờ Journal Officiel31, nói về buổi họp thứ nhất ngày 22-12-1922: "Trong thời kỳ chiến tranh, nhiều lính Phi gửi ngân phiếu cho gia đình với những số tiền nhiều khi rất lớn. Nhưng các ngân phiếu ấy không bao giờ đến tay người nhận cả". Một bạn đồng nghiệp lại vừa cho chúng tôi biết một hiện tượng tương tự như thế. Lần này, sự việc xảy ra ở đảo Rêuyniông. Đã nhiều tháng nay, nhân dân trên đảo không hề nhận được một bưu kiện nào gửi đến cho họ cả. Tờ Journal viết: "Hiện tượng ấy làm cho cả người gửi hàng lẫn người không nhận được hàng đều phải lấy làm lạ. "Nhiều người khiếu nại. Cuộc điều tra mới mở đã rọi ngay được ánh sáng vào điều bí mật nói trên, và phát hiện được một loạt vụ đánh cắp được tiến hành một cách chu đáo và kiên trì lạ thường. "Người ta bắt một nhân viên, rồi một nhân viên nữa, rồi đến lượt ông "xếp", và cuối cùng, khi tất cả nhân viên bị còng tay thì đến phiên ông giám đốc ngành bưu điện cũng theo họ vào tù nốt. "Mỗi ngày, cuộc điều tra lại đưa ra ánh sáng vài sự việc mới. Số bưu kiện bị đánh cắp trị giá trên 125.000 phrăng. Giấy tờ, kế toán đều làm gian cả. Sổ sách gian lận rối beng đến nỗi phải mất hơn 6 tháng mới gỡ ra được. "ở trong một ngành nào đó, đôi khi có thể có một vài viên chức gian tham, song rất ít khi lại có cả một ngành suốt từ trên xuống dưới nhiễm phải bệnh ăn cắp đến như vậy; điều lạ kỳ hơn nữa là tại sao tất cả bọn ăn cắp ấy lại có thể hoành hành được trong mấy năm ròng mà vẫn được bình yên vô sự". Nguyễn Ái Quốc Báo La Vie Ouvrière,ngày 19-1-1923. ============================ SƯU TẬP ĐỘNG VẬT Thật chúng tôi đã nghĩ đến nát cả bộ óc người da vàng của chúng tôi ra, cũng không tài nào tìm thấy cái lẽ vì sao mấy ông bà người Pháp lại thành lập một tổ chức kỳ cục là Hội bảo trợ loài vật. Trước hết, chúng tôi sở dĩ không sao tìm ra được nguyên nhân đó, vì chúng tôi thấy hiện nay còn có biết bao nhiêu là con người cùng khổ đang đòi hỏi được người ta săn sóc đến họ một chút mà cũng chẳng được. Sau nữa vì những con vật đó không đáng được thương yêu đến thế, mà chúng nó cũng có khổ sở gì cho cam. Trừ con sư tử đen là có ích cho những người có thói quen xỏ chân vào giày da thú, còn hầu hết những con vật đó đều độc ác, rất độc ác. Cái con chó ngắn mõm chẳng đã chạy đến nhe bộ răng khả ố của nó ra mà xé toạc cả cơ cấu của Hội nghị Pari đó sao? Thành thử con khỉ phlamăng và con gà sống gôloa phải một mình đương đầu với con phượng hoàng giécmanh ở miền Ruya. Trong khi hãy còn bị xích cổ, thế mà con hổ chẳng đã nhá nghiến mất nhiều bộ của nước Cộng hoà đó sao? Người ta chẳng đã phí hàng mấy triệu, mấy tỷ để nhờ hai ông bạn vinh quang của chúng ta là Contrắc và Vranghen mua hộ da con gấu Mátxcơva, là con vật ngày nay hơn bao giờ hết, nó không thích để cho người ta tuỳ ý muốn làm gì thì làm đó sao? (Chao! con vật mới quái chứ). Trong số các bạn hữu ở chính quốc của chúng ta, ai là người không phải phàn nàn về tai hại do loài diều hâu gây ra? Loài quạ mà lại chẳng phải là những kẻ phá hoại tai hại trong địa hạt tinh thần à? Còn những con mọt già thì có làm được việc gì ngoài cái việc chỉ chuyên tìm cách lợi dụng những sự bất hoà và những chuyện xích mích trong xã hội? Lại còn con vật nào đó chẳng đã vô sỉ đến nỗi muốn cho phép tất cả các chàng rể láo xược cứ việc dùng tên nó để gọi mẹ vợ họ đó sao? Bọn mèo quý phái há chẳng thật sự là những kẻ đã dập tắt cả hạnh phúc gia đình của nhiều nhà đó ư? Và những con chuột cống ở khách sạn chẳng đã là những kẻ thù muôn thuở của tất cả những người đi du lịch đó sao? Chưa kể đến chó sói lúc nào cũng là kẻ có lẽ phải vì đó là kẻ mạnh hơn, và những con chiên ghẻ là một mối tai hoạ cho cả một xã hội trung thực, chúng tôi... Nhưng trước khi kết thúc, ta hãy nói một chút về những con vật ở thuộc địa. Đúng giữa lúc ông Ghinan chuẩn bị để nhờ ông Mănggianh chuyển lên Viện Hàn lâm khoa học một bài nghiên cứu về việc sử dụng da cá mập, thì ông Anbe Xarô lên đường đi Đảo Chó đọc một bài diễn văn bộ trưởng của ông tại xưởng ướp cá thu Xanh Pie và Micơlông, còn về phần ông Xitơrôen thì ông cho "con Sâu" khai hoá của ông bò xuyên qua Xahara. Hai cuộc đi công cán này - việc công và việc nửa công nửa tư - chắc hẳn thế nào cũng sẽ thu được kết quả tốt đẹp mà người ta có quyền chờ đợi: tức là làm cho con chuột nhắt đẻ ra những quả núi và củng cố địa vị của những con cá mập thực dân. Người ta thường quên tưởng rằng các nhà bảo hộ của chúng ta lúc nào cũng thi hành cái chính sách của loài đà điểu. Nhưng lầm to rồi các bạn ạ! Chả phải thế đâu, này nhé: Chỉ có nhận lời mời của chú cá nục ở Hải cảng cũ thôi mà chính phủ thuộc địa đã không ngần ngại một chút nào mà không chi tiêu: 1- Đông Dương 13.190.846 phrăng 2- Tây Phi thuộc Pháp 5.150.000 - 3- Châu Phi xích đạo thuộc Pháp 348.750 - 4- Camơrun 390.000 - 5- Mađagátxca 1.837.600 - 6- Máctiních 108.000 - 7- Guyađơlúp 55.000 - 8- Guyan 62.500 - 9- Tân Caliđôni 75.000 - 10- Tân Hêbrít 60.000 - 11- Châu Đại Dương 65.000 - 12- ấn Độ 135.000 - 13- Xômali 97.000 - 14- Đảo Rêuyniông 85.000 - 15- Xanh Pie và Micơlông 14.000 - để đưa vài con lạc đà, vài con bò cái và vài con cá sấu từ các thuộc địa về thành phố Mácxây. Lại cũng phải nhận rằng các nhà đi khai hoá của chúng ta đã không từ một sự cố gắng nào để cắm cho mấy con chim sẻ bản xứ- rất dễ bảo và rất ngoan ngoãn - vài cái lông công làm cho chúng trở thành những con vẹt hay những con chó giữ nhà. Và nếu nhân dân châu Phi và châu á mà được "hoà bình" và "thịnh vượng" đến như thế này, thì chính những "vị đi gieo rắc dân chủ" không biết mỏi mệt đó là con nhặng đánh xe1) chứ còn ai vào đó nữa? Nói tóm lại, số phận của tất cả những con vật ấy tương đối đã dễ chịu. Vậy, nếu các hội viên của cái hội cao cả là Hội bảo trợ các loài vật cần phải giết thì giờ, thì nên chăm sóc đến những con khỉ bị bác sĩ Vôrônốp làm cho đau đớn2) và đến những con cừu dân bản xứ khốn khổ kia luôn luôn bị hớt trụi lông3), đó có lẽ lại là một việc ích lợi hơn. Nguyễn Ái Quốc Báo Le Paria, số 11, ngày 1-2-1923. ============================ Y NHƯ NƯỚC MẸ Cho đến nay, trên thế giới chỉ có thành phố Tuynlơ1) là có thể tự hào đã có những bức thư nặc danh vang dội. Ngày nay, xứ Nam Kỳ với lòng hiếu thảo và mong muốn tỏ lòng trung thành không bờ bến đối với nước khai hoá văn minh cho mình - vừa rồi cũng có cái vụ thư nặc danh "của nó". Nhưng xứ thuộc địa này đã "bắt chước" vụng về vì không phải là vụ một nàng Lavan diễm lệ mà là vụ một hương chức An Nam già nua vừa bị bắt bỏ tù, không phải vì đã lạm dụng thư nặc danh mà vì đã bị thư nặc danh tố cáo. Việc ấy thực chất như thế này: Một đêm tháng 12 năm 1922, cụ hương cả An Nam đang mơ màng thì bỗng nghe tiếng mõ huyên náo báo cho dân làng biết có cướp ở trên sông cái, ngay trước mặt Chợ Lách! (Ô! vậy thì cái nền an ninh mà các nhà chức trách từng ca tụng ở đâu nhỉ?). Cụ hương cả nhà ta vùng dậy vớ lấy khẩu súng - nguyên cụ hương cả cũng đồng thời là trương tuần của một trại ấp lớn - và lập tức cùng với hai gia nhân xuống thuyền bơi ra sông. Vừa đến nơi, cụ hương cả và hai gia nhân liền bị bọn cướp nổ súng bắn; một trong hai gia nhân bị trúng đạn giữa ngực và vài phút sau thì tắt thở. Cụ hương cả bắn trả lại bọn cướp một phát không trúng, trái lại bị bọn cướp bắn bị thương vào tay phải. Rồi chỉ vì thư nặc danh tố cáo, mà cụ hương cả nọ đã bị bắt giam về tội là đã giết gia nhân của mình. Mặc dù cha người xấu số và người gia nhân còn sống đã đệ đơn minh oan cho bị cáo, nhưng cụ hương nọ vẫn còn nằm trong "buồng tối" "để chờ ánh sáng của công lý". NGUYỄN ÁI QUỐC. Báo Le Paria, số 11, ngày 1-2-1923. ============================ LÒNG NGAY THẲNG CỦA CHÍNH PHỦ THUỘC ĐỊA Trong thời chiến tranh vinh quang, để có được những "tình nguyện quân", người ta đã hứa trời hứa biển với dân bản xứ. Chiến tranh hết, những lời hứa trang trọng ấy cũng được trang trọng quên đi. Trong kỳ công trái trước lần cuối - công trái mà dân bản xứ hưởng ứng "một cách tự nguyện với một tấm lòng sốt sắng và phấn khởi" đến nỗi phải đóng két lại trước thời hạn vì đã được gấp hai lần rưỡi số tiền dự định. Đối với lần công trái này, ngoài những biện pháp thúc ép, người ta còn hứa với những người mua, phẩm hàm, hoàn tiền dễ dàng, và hàng lô cái khác nữa. Bây giờ, khi lòng trung thành đã được chứng tỏ, những người mua công trái trở thành người dại dột. Không những các cơ quan tài chính không nhận mua lại trái phiếu mà còn từ chối cả việc cầm cố trái phiếu. Thế đó, những việc tốt trở thành xấu! Còn về những phẩm hàm và sắc phong cao quý khác thì xin kiếu! Còn nữa, muốn lĩnh được những trái phiếu đã hoàn toàn quá hạn trả, người chủ phiếu còn bắt buộc phải xuất trình thẻ thuế thân. Chúng ta có nên phàn nàn cho 72.177 kẻ "khốn khổ"1) là đồng bào của chúng ta đã mua công trái hay không ? Trước khi trả lời câu hỏi này, chúng ta hãy tự hỏi xem việc này, nếu phải là một việc có ích thật, mà không công bố là của nhà nước, không tuyên truyền, chẳng quảng cáo, thì liệu có bao nhiêu đồng bào hào hiệp này của chúng ta chịu nhả ra một xu? Sự thông minh tính toán của đám "dã dân" cũng chẳng lép gì so với tài loè bịp hứa hẹn của giới "nắm quyền". NGUYỄN ÁI QUỐC T.B. Phủ Toàn quyền Đông Dương sắp được phép phát hành đợt hai công trái 90.000.000 phrăng. Khéo đấy, anh em ơi! Báo Le Paria, số 11, ngày 1-2-1923. ============================ CHẾ ĐỘ THỰC DÂN Không phải chỉ có những người cộng sản mới nổi lên chống lại sự bóc lột thuộc địa một cách quá mức. Báo chí và các diễn giả tư sản cũng phản đối sự khắc nghiệt mà người bản xứ phải chịu đựng; phản đối sự vô sỉ luôn bao trùm bộ máy cai trị thuộc địa; phản đối tình trạng thiếu hẳn một chính sách thuộc địa nghiêm chỉnh. Vì vậy, chúng tôi đã gặp gỡ các địch thủ giai cấp của chúng tôi để đưa ra những phản đối tương tự. Nhưng phải nhấn mạnh rằng, chúng tôi sẽ chia tay họ ngay khi đề cập đến cách giải quyết vấn đề. Những người cộng sản đòi hỏi chấm dứt bóc lột thuộc địa, một bộ phận của bóc lột tư bản nói chung. Các nhà tư sản thì chỉ nghĩ đến việc tăng cường hệ thống thuộc địa để khai thác lợi nhuận cao hơn, để tăng cường sự cưỡng đoạt. Dĩ nhiên chính quyền lợi của họ, hoặc là một thứ tình cảm nhân đạo mập mờ nào đó đôi khi đã thúc đẩy họ lên tiếng yêu cầu làm dịu bớt số phận người bản xứ. Nhà bình luận của tờ Oeuvre lấy làm tiếc là người ta chỉ nhìn nhận những người da đen như một thứ nhân lực mà họ yêu cầu phải tước đoạt sạch những gì họ tìm thấy ở những con người này? Nhưng người ta không hề kết luận là phải từ bỏ chủ nghĩa thực dân. Người ta chỉ sợ những người bị bóc lột nổi dậy. Người ta yêu cầu nên nghiên cứu cách đàn áp những biến loạn có thể xảy ra, hoặc tốt hơn nên cần có những biện pháp làm dịu để ngừa trước hậu quả của những biện pháp tàn nhẫn quá hung bạo. Vấn đề vẫn chỉ là buộc các thuộc địa phải làm ra nhiều hơn, vì lợi nhuận tối đa của các công ty tư bản. Những người cộng sản vui sướng tìm được ở đối thủ tiếng vọng hưởng ấy lời phản đối của mình. Nhưng những người cộng sản đấu tranh cho sự giải phóng dân tộc và kinh tế của các thuộc địa, chứ không phải cho những biện pháp tạo điều kiện dễ dàng cho sự cướp bóc. Sau đây, chúng tôi thông báo tóm tắt những hành động xấu xa của chính sách thuộc địa. Nhưng chúng tôi lưu ý một lần nữa là đối với những người cộng sản, vấn đề không phải là cải thiện hệ thống thuộc địa mà phải bãi bỏ nó. * * * Những hy sinh xương máu và tiền bạc, những cuộc xâm chiếm đất đai rộng mênh mông, nguồn của cải không bao giờ cạn, địa hạt vô biên dành cho hoạt động của con người là để làm gì? Chi phí cho việc chiếm đóng tiếp tục làm thâm thủng ngân sách, còn các thuộc địa bị ảnh hưởng của cơn khủng hoảng đang giết chết đất nước này. Người Pháp ít di cư, vài ngành công nghiệp đang phồn thịnh mà nước Pháp nâng đỡ thì lại nằm trong tay người nước ngoài. Lẽ ra cần phải xây dựng một chương trình hợp lý chứ không phải chiếm đoạt tài sản, của cải để bóc lột một cách ngấu nghiến. Người ta đã hoàn toàn truất quyền sở hữu của người bản xứ. Vì thế, sự phát triển của các thuộc địa thật là khó khăn: Thuộc địa là những khách hàng yếu ớt của nền công nghiệp chính quốc cũng đang bị tổn thất; thuộc địa là những người cung ứng nhỏ nhoi do những sai lầm trong khai thác. Ngày nay, những người bóc lột nghĩ tới việc tổ chức lại theo kiểu hiện đại. Nước Angiêri cần 1.000 triệu; Tây Phi thuộc Pháp muốn 1.200 triệu mà lẽ ra các nước nói trên phải là những trợ lực quý báu cho chính quốc. Tình hình tài chính ở những nước này thật thảm hại. Việc kinh doanh ở đó thật khó khăn chính là do tính tham lam vô lương tâm của một số người cai trị. Sự bóc lột ích kỷ đó chỉ có thể thực hiện bằng cách tước đi mọi quyền độc lập của các thuộc địa. Tài nguyên thiên nhiên của các thuộc địa đủ để họ thế chấp các khoản vay nợ; các thuộc địa có thể giúp nước Pháp, nhưng thực tế họ lại là nạn nhân của sự thiếu hụt tài chính. Thật là thảm hại khi phải ghi nhận là mặc dù phải gánh chịu các vùng còn bị tàn phá cái khoản trợ cấp cho người goá bụa do chiến tranh họ lại phải giúp đỡ những tổ chức đang chết trên đống của. Vì sao chính phủ lại phung phí hàng tỷ bạc vào Xyri? Nó không dám thú nhận điều đó. Vậy đến bao giờ người ta mới biết được sự thật về những vụ bê bối ở Nigiê? Người ta không bao giờ muốn nói xâm chiếm thuộc địa là việc đốt nhà, tàn sát hay cướp bóc; và cũng không muốn nói đó là việc làm cho kiệt quệ một đất nước chỉ mong muốn được phát triển. Mà đó là triệt hạ sự sống của cả một vùng khi đặt nó vào tay một vài ông lớn chứ không phải để cho dân chúng canh tác trên mảnh đất đó. Dân tộc Pháp được lợi lộc gì từ các thuộc địa của họ? Chẳng qua một vài đội quân đi làm dịu những xung đột giữa tư bản và lao động. Vì vậy, cần bắt buộc tất cả các ứng cử viên phải có chương trình về thuộc địa trong các cuộc bầu cử sắp tới. NGUYỄN ÁI QUỐC Báo L' Humanité, ngày 5-2-1923. ============================ TỪ VỤ BÊ BỐI NÀY ĐẾN VỤ BÊ BỐI KHÁC Mặc dù có sự rùm beng xung quanh cuộc triển lãm ở Mácxây, những bài diễn văn long trọng, những cuộc du ngoạn của hoàng gia và những bài khoa trương trên các báo, tình hình ở Đông Dương vẫn tồi tệ. Chiếc ghế bị cáo mà viên quan cai trị "thanh liêm" Lanô vừa rời khỏi chưa kịp nguội thì đã có tin về những vụ bê bối mới. Trước hết, đó là vụ Buđinô. Ông Buđinô là một "nhà khai hoá" điển hình; một quan cai trị chuyên ăn hối lộ. Khoản cơ bản của lời buộc tội ông ta là như sau: "Làng Tân An đã lấy quỹ làng và vay tiền để xây dựng một trạm điện. Việc ấy tỏ ra thành công, vì thu nhập do trạm đem lại trang trải có dư tất cả mọi khoản chi tiêu. Ngoài ra, các nhà công cộng và đường làng được bảo đảm điện đèn không mất tiền. Thế mà một viên quan cai trị khôn khéo (ông Buđinô) đã thực hiện một sự sắp đặt như sau: làng Tân An nhượng không trạm điện cho một anh thầu khoán, để được hưởng cái thú phải trả tiền điện thắp sáng các nhà công cộng và đường làng. Rồi người ta bỗng nhận thấy nên chuộc lại đặc quyền đã nhượng không và muốn thế làng phải xếp ra mấy chục nghìn đồng. Toàn bộ chuyện này giống một cuốn tiểu thuyết thực sự, trong đó, viên cựu công sứ đã bộc lộ trí tưởng tượng của mình với một sự vô sỉ không thể tưởng nổi. Vụ bê bối thứ hai là vụ Têa. Đây là điều bạn đồng nghiệp của chúng tôi ở Đông Dương kể lại: "Chúng tôi sống trong một bầu không khí... thực sự phi thường: vụ Buđinô, vụ Lanô và ít lâu sau là vụ Têa. Ông Têa, một kỹ sư có rất nhiều công lao, giám đốc một hãng lớn của Pháp ở Hải Phòng, ông đến nhà ông Xcala, giám đốc Sở đoan và muốn ngoặc với chính quyền để bán thuốc phiện, ông đã đưa cho ông ta số tiền một vạn đôla, lấy cớ là trả tiền trước hạn, không cần lấy bất cứ biên lai, giấy tờ gì cả. Để dám đi một bước như vậy, cần phải đắn đo suy nghĩ kỹ và phải tin chắc rằng người ta sẽ không tìm thấy trong hành vi đó một điều gì không bình thường. Điều đó có nghĩa là trong giới kinh doanh ở Đông Dương, những việc giao dịch như vậy là chuyện bình thường. Tất cả những kẻ có quyền hành như vậy cũng đều sẽ lợi dụng để vơ vét của cải cho bản thân mình và bằng cách đó sẽ mang lại tổn thất lớn cho xã hội". Nếu tên đao phủ Đáclơ, công sứ tỉnh Thái Nguyên, được cử làm Uỷ viên Hội đồng thành phố Sài Gòn, còn ông Bôđoanh, người đang được quan toà Oaren nóng lòng mong đợi đã trở thành quyền Toàn quyền Đông Dương, thì các ông Têa và Buđinô ít ra cũng nên được gắn bội tinh mới phải. Nguyễn Ái Quốc Báo L'Humanité, ngày 5-2-1923. ============================ NẠN THIẾU TRƯỜNG HỌC Dân chúng đang đòi hỏi phải có trường học, mà hiện nay, trường học đang thiếu một cách tệ hại. Mỗi năm, cứ đến ngày khai trường, các bậc cha mẹ dù có đi gõ cửa khắp nơi, cầu xin mọi sự giúp đỡ, thậm chí xin nộp gấp đôi tiền ăn học mà họ vẫn không gửi được con cái đến trường. Và những đứa trẻ này, có đến hàng nghìn, bị đày vào cảnh ngu dốt chỉ vì không có đủ trường sở cho chúng đi học. Người ta sẽ nói rằng, vì ngân sách không đủ cho chính phủ xây thêm trường mới. Không hẳn thế đâu. Trong số 12 triệu đồng của ngân sách Nam Kỳ, thì 10 triệu đồng đã tìm được cách lọt vào túi các công chức. Mặt khác, sợ rằng thanh niên An Nam bị tiêm nhiễm chủ nghĩa bônsêvích, Chính phủ thuộc địa làm mọi cách có thể làm để ngăn cản họ sang học ở chính quốc. Điều 500 (Bis) của nghị định ngày 20 tháng 6 năm 1921 về học chính ở Đông Dương nói như sau: "Mọi người bản xứ, vô luận là dân thuộc địa Pháp hay dân do Pháp bảo hộ, muốn sang chính quốc tiếp tục học tập, đều phải được phép của quan toàn quyền. Quan toàn quyền sẽ quyết định sau khi hỏi ý kiến quan thủ hiến và quan giám đốc Nha học chính. Trước khi đi, đương sự phải có một học bạ đại học do Nha học chính cấp, có dán ảnh và ghi rõ lý lịch, địa chỉ cha mẹ, những trường đã học, các học bổng hoặc trợ cấp đã được hưởng, các bằng cấp đã có và địa chỉ của người bảo lãnh ở Pháp. Học bạ đó phải được quan toàn quyền phê chuẩn. Hồ sơ của những người bản xứ du học ở Pháp được lưu tại Nha học chính". "Làm cho u mê để thống trị", đó là phương pháp mà nhà cầm quyền ở các thuộc địa của chúng ta ưa dùng nhất. Nguyễn Ái Quốc Báo L'Humanité, ngày 5-2-1923. ============================ "VI HÀNH" (Trích "Những bức thư gửi cô em họ" do tác giả tự dịch từ tiếng An Nam) - Hắn đấy! - Đâu phải! - Đúng mà! Anh đã bảo là chính hắn đấy. - Chắc thật à ? Em thì em đã thấy hắn ở trường đua, trông hắn có vẻ nhút nhát hơn, lúng ta lúng túng hơn cơ, có cả cái chụp đèn chụp lên cái đầu quấn khăn, các ngón tay thì đeo đầy những nhẫn. - Thế hay là hắn đã đem tất cả các thứ đó đến tiệm cầm đồ rồi? Nhưng mà nhìn kỹ xem kìa! Chẳng phải vẫn cái mũi tẹt ấy, vẫn đôi mắt xếch ấy, vẫn cái mặt bủng như vỏ chanh ấy đấy à? - ừ nhỉ, thì cũng có thể là anh đúng. Nhưng hắn đến đây làm gì nhỉ trong đường xe điện ngầm này, và tụi các ông quan bà kiếc đi theo thì đâu cả ? - Có khi đã gửi tuốt ở kho hành lý nhà ga để đi chơi vi hành đấy. Đấy, cô em họ thân mến của tôi! Tôi đã thuật lại y nguyên câu chuyện giữa một đôi bạn trẻ ngồi cùng toa xe với tôi. Họ ngấu nghiến trông tôi với cặp mắt ma mãnh, tò mò, nhưng lại ra bộ không nhìn tôi gì cả. Cuộc đối thoại tiếp diễn như sau: - Thế em nghĩ thế nào về người khách của chúng ta ? người con trai hỏi, ngỡ tôi là một đấng Hoàng thượng và tưởng rằng tôi không hiểu họ nói gì với nhau. - Hắn còn làm mình bật cười hơn nữa cơ lúc hắn đeo lên người hắn đủ cả bộ lụa là, đủ cả bộ hạt cườm, người bạn gái anh ta trả lời. - Hạt châu báu đấy chứ! Em thích có chỗ châu báu ấy quá đi, chứ còn gì! - Em mà có ấy à, thì em cố tình đánh mất đi, để được báo chí nói đến, và thế là được trở thành một ngôi sao. Thế còn anh, anh nghĩ gì về người dân bảo hộ của chúng ta nào ? - ích cho chúng ta lắm đấy. Cái lò ở Găngbe đã bán rồi. Cái rương của Hêra Miếcten cũng đã thanh toán rồi. Vụ án người bị chặt ra từng khúc thì không thu hút được công chúng lắm vì không thuộc giới thượng lưu. Và thế là cái kho giải trí của chúng ta1) sắp cạn ráo như B.Đ.D vậy. Nhật báo chẳng còn cái gì để bôi bác lên giấy cả. Đúng lúc đó thì ... - Đổi xe ở đây chứ anh yêu ơi ? - Không, ga sau. Đúng lúc đó thì có một anh vua đến với chúng ta - Em thì em thích Sáclô hơn. Với lại, vua, thì tốn lắm. - Đâu có! Thế em còn nhớ buổi dạ hội thuộc địa ở nhà hát ca vũ đấy chứ ? Phải trả những nghìn rưởi phrăng để xem vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên, xem tụi làm trò leo trèo nhào lộn của sư thánh xứ Cônggô; hôm nay thì chúng mình có mất tí tiền nào đâu mà được xem vua đang ngay cạnh ? Nghe nói ông bầu Nhà hát Múa rối có định ký giao kèo thuê đấy.... Tàu đỗ, cặp trai gái bước xuống, mắt cứ liếc nhìn trộm tôi, và tôi thì buồn cười quá, bỗng đâm ra nghĩ, và nghĩ đến cô. Tôi như còn trông thấy cái ngày mà cô với tôi, đôi chúng ta, như đôi chim ấy thôi, đậu vắt vẻo trên đầu gối ông bác thân yêu, nghe bác kể chuyện cổ tích. Tôi nhớ chuyện vua Thuấn, vì muốn đích thân tai nghe mắt thấy dân có bằng lòng mình không, nên cải trang làm dân cày đi dò la khắp xứ. Lại nhớ chuyện vua Pie nước Nga đi làm thợ và đến làm việc ở các công trường nước Anh. Bên những bậc cải trang vĩ đại ấy muốn đi sâu vào cuộc sống của nhân dân, ngày nay, còn có những ông hoàng, ông chúa, để tiện việc riêng và vì những lý do không cao thượng bằng, cũng "vi hành" đấy. Tôi không được rõ ý đồ nhà "vi hành" của chúng ta ra sao. Phải chăng là ngài muốn biết dân Pháp, dưới quyền ngự trị của bạn ngài là Alếchxăng đệ nhất có được sung sướng, có được uống nhiều rượu, và được hút nhiều thuốc phiện bằng dân Nam, dưới quyền ngự trị của ngài, hay không? Phải chăng ngài muốn học sử dụng (theo kiểu Pháp) cái liềm của nhà nông cùng cái búa của thày thợ để sau cuộc ngao du, đem về chút ấm no mà đám "dân" bất hạnh của ngài tới nay hoàn toàn chẳng biết đến? Hay là, chán cảnh làm một ông vua to, bây giờ ngài lại muốn nếm thử cuộc đời của các cậu công tử bé. Thế nào thì thế, ít lâu nay tôi đã trở thành một đấng Hoàng thượng bất đắc dĩ. Bất cứ tôi đi đâu, là có người nhìn tôi, ganh tị tôi, mỉm cười với tôi, tán tụng tôi, đi theo tôi. Cô em thân mến, hẳn cô bảo tôi rằng, thế là cái bánh xe vô lượng nó đã quay rồi đấy. Đến nay, tất cả những ai ở Đông Dương có màu da trắng đều là những bậc khai hoá, thì bây giờ đến lượt tất cả những ai có màu da vàng đều trở thành hoàng đế ở Pháp. Cô không thể tưởng tượng được cảnh đón tiếp tốt đẹp người ta dành cho chúng tôi ở đây. Quần chúng cứ là tự phát mà biểu lộ nhiệt tình khi vừa thoáng thấy một đồng bào ta. Những tiếng "hắn đấy!" hay "xem hắn kìa!" là những lời chào mừng kín đáo và kính trọng mà chúng tôi thường gặp dọc đường. Cái vui nhất là ngay đến Chính phủ cũng chẳng nhận ra được khách thật của mình nữa, và để chắc chắn khỏi thất thố trong nhiệm vụ tiếp tân, Chính phủ bèn đối đãi với tất cả mọi người An Nam vào hàng vua chúa và phái tuỳ tùng đi hộ giá tuốt! Đó là những người phục vụ thầm kín, rụt rè, vô tư và hết sức tận tụy. Các vị chẳng nề hà chút công sức nào để bảo vệ bọn tôi, và giá cô được trông thấy các vị ân cần theo dõi tôi chẳng khác bà mẹ hiền rình con thơ chập chững bước đi thứ nhất, thì hẳn cô phải phát ghen lên được về nỗi niềm âu yếm của các vị đối với tôi. Có thể nói là các vị bám lấy đế giày tôi, dính chặt với tôi như hình với bóng. Và thật tình là các vị cuống cuồng cả lên nếu mất hút tôi chỉ trong dăm phút! Cô thử nghĩ, làm sao mà không xúc động sâu xa được, khi được đối đãi như thế? Ngày nay, cứ mỗi lần ra khỏi cửa, thật tôi không sao che giấu nổi niềm tự hào được là một người An Nam và sự kiêu hãnh được có một vị hoàng đế. Nguyễn Ái Quốc Báo L'Humanité, ngày 19-2-1923. ============================ VIỆN HÀN LÂM THUỘC ĐỊA Tuy đã ở thuộc địa lâu năm, bạn Xôra của tôi là một người dễ thương. Anh lại rất là hóm hỉnh, điều rất hiếm thấy trong giới anh. Anh có thói quen kỳ quặc là khi nói, gặp vần nào bắt đầu bằng âm cờ là cứ lặp đi lặp lại hai lần liền, khiến cách nói của anh sẽ trở nên ngọt ngào và thú vị khác thường. Hôm nọ anh đến thăm tôi. Chỉ nhìn đôi mắt anh nấp sau đôi mục kỉnh to tướng, tôi đoán ngay anh sắp tuôn ra một điều ba hoa gì đó mà anh thường nói. Quả không sai. - Này ông cụ mình, này! Anh bắt tay tôi, nói. Một Viện hàn... hàn lâm khoa học thuộc... thuộc địa1) đã được thành lập, cậu biết chứ? - Biết, ừ! Thì sao? - ở đấy có một Ban địa lý, một Ban mỹ nghệ, một Ban giáo dục, tức là có bao nhiêu người cần gán vào thì có bấy nhiêu ban. Nhưng ngược lại, thế vẫn còn thiếu một ban, ban quan trọng nhất để cho một viện loại có tầm cỡ nổi bật lên. - Là ban gì vậy? - Tớ đã nói đấy: là Ban đạo lý... thuộc... thuộc địa. - Để mexừ1) Xôra làm trưởng ban chứ gì? - Không! Đít tớ đâu có cái thớ hàn... hàn lâm, nhưng tớ có một danh sách những người lương thiện, liêm khiết, yêu nước, xứng đáng được đề nghị đưa vào hàng bất triệt (hay bất tử như người ta gọi theo cách thông tục). Đây là họ, tên, nghề nghiệp của những vị ứng... ứng cử viên của tớ! Các ông: Ăngđrê Béctôlô, thượng nghị sĩ quận Xen, Giám đốc tuyến đường sắt từ Cônggô Thượng đến vùng Hồ Lớn châu Phi. Sanhô Lêông, thượng nghị sĩ quận Crơdơ, Giám đốc công ty vận tải Marốc. Saxtơnê Ghiôm, thượng nghị sĩ quận Girôngđơ, Giám đốc Hội hợp nhất Liegiơ đê Hamăngđa - Tiểu Kabili. Côkê (Giăng), thượng nghị sĩ quận Rôn, Giám đốc tổ hợp kỹ nghệ và thương mại Bắc Phi. Côxne (Hăngri), thượng nghị sĩ quận Anhđrơ, Giám đốc Công ty Phi châu về thương mại, kỹ thuật và canh nông. Mácxan (Phrăngxoa), thượng nghị sĩ quận Căngta, Giám đốc Hội buôn bán Tây Phi. Giêra (Anbe), thượng nghị sĩ quận Acđen, Giám đốc Công ty kền Tân Calêđôni. Grôđiđiê, thượng nghị sĩ quận Mơdơ, Giám đốc Công ty vận tải ở Marốc. Hầu tước Đơ Môngteguy, thượng nghị sĩ quận Loa Hạ, Giám đốc các đường xe lửa và các mỏ phốtphát Gápxa1). Marô, thượng nghị sĩ quận Lốt và Garôn, Giám đốc đường sắt từ Cônggô đến vùng Hồ Lớn châu Phi. Bécsô (Guyxtanh), thượng nghị sĩ quận Anpơ Hạ, Anpơ thấp thuộc các Hội bỏ thầu và khai thác ở Đông Dương, Hội quốc tế nghiên cứu và xây dựng ở Marốc và Hội bỏ thầu ở tây Marốc. Rulăng (vâng, cố nhiên), thượng nghị sĩ quận Xen Hạ, Giám đốc ngân hàng của Angiêri và Tuynidi, đường tàu điện từ Ôrăng đến Hammen - ben - Mátgia và Công ty Marốc Ra và Kalô. Các ông: Áccămbray, nghị sĩ quận Exnơ, thuộc Tân công ty Phi châu về thương mại, kỹ nghệ và canh nông. Áctô, nghị sĩ quận Cửa sông Rôn, Giám đốc Công ty Pháp quốc của Tây Phi, trưởng ban trị sự thương quán Pháp - Marốc và những nhà máy đường thuộc địa. Balăngđơ, nghị sĩ quận Girông, thuộc Uỷ ban liên bang thuộc địa. Rơnaden, nghị sĩ quận Anhđrơ, thuộc vùng mỏ Buácpha (Marốc). Bectôlôni, nghị sĩ quận Xavoa, Lào, thuộc Công ty thương mại Lào. Cămbrudơ, nghị sĩ quận Girông, thuộc Công ty Pháp ở Tôgô. Satxenhơ Gôiông, nghị sĩ quận Xen, Phó chủ tịch Hội hợp nhất Liegiơ đê Hamăngđa - Tiểu Kabili. Duyboăng (Giắcke), nghị sĩ quận Xavoa, Lào, thuộc Công ty Marốc vôi, ximăng, và vật liệu xây dựng. Phơdăng, nghị sĩ quận Xaôn và Loa, thuộc Tổng công ty Pháp và Đông Dương về lụa. Oenđen (Phrăngxoa đờ), nghị sĩ quận Mớc và Môden, thuộc các mỏ thiếc và vônphram ở Bắc Kỳ. Gaxparanh, nghị sĩ đảo Rêuyniông, thuộc Công ty Pháp ở Tôgô. Girô (Huybe), nghị sĩ quận Cửa sông Rôn, Giám đốc Ngân hàng Xyri và Công ty Marốc. Hanê (Anbe), nghị sĩ quận Exnơ, thuộc Công ty thảm Tôn phủ. Giốtxơ (Prôxpơ), nghị sĩ quận Ơrơ, thuộc Pháp quốc ngân hàng châu Phi xích đạo, của Công ty Phi và Cônggô. Lusơ, nghị sĩ quận No, thuộc Tổng công ty các xí nghiệp ở Marốc. - Quả thật, tôi nói với anh bạn, đấy đúng là những người đại diện vừa cho quyền lợi thật sự của cử tri ở Quốc hội Pháp, vừa cho quyền lợi và nền văn hoá Pháp ở thuộc địa. Nhưng còn... - Tớ biết cậu sắp nói gì, Xôra ngắt lời tôi, cậu muốn bảo tớ không nghĩ đến bọn thuộc rượu Rum hay thuộc độc quyền rượu, chứ gì? Nhưng danh sách đã dài và căn nhà chứa sẽ bé quá không đủ cho tất cả những con người này. Với lại kỳ tới tớ còn một đề nghị hay hơn nhiều cơ. Khói thuốc dày đặc thoát ra từ tẩu vây lấy Xôra như hương thơm của những ông chồng chung thuỷ bao quanh thánh Giôdép. Xôra chậm rãi bảo tôi: Cậu có biết là Anbe Xarô đã đổ bể rồi không? - ... - Đừng vờ ngốc nghếch nữa đi nào! Cậu thừa biết là tớ nói đến con tầu - con tầu duy nhất của Hạm đội Đông Dương - ấy mà... Mà cậu không hiểu gì, thì để tớ kể cho nghe. Muốn có một Hạm đội Đông Dương, thì phải có một chiếc tàu Đông Dương. Thế là người ta cho đóng "con tầu". Rồi người ta lấy tên vị cầm lái lớn đặt tên cho cái lái lớn. Dung lượng con tầu chạy hơi nước này, khi ra khỏi xưởng, chỉ là 3.500 tấn. Mấy hôm sau, trong bài diễn văn của vị cha đỡ đầu lừng danh của nó, nó có dung lượng 6.000 tấn. Mấy tháng sau, trong bài đăng trên một tờ báo lớn thì dung lượng nó là 60.000 tấn. Phải cái là đáng lẽ phải chạy 12 nút1), thì thoạt đầu nó chỉ chạy có 6 nút thôi. Bây giờ nó chết giấc. Để tán thiên hạ, người ta dẫn nó sang chơi Trung Hoa. Vì quên không cho nó đi tàu hoả, đến Thượng Hải, cái của ấy không chịu đi nữa, nó hỏng, nó rỉ nước, nó hư súpde, nó định tự tử, nó chỉ còn là cái... nút thòng lọng. Tưởng chừng con tàu khốn khổ mắc bệnh tim la. Nhưng không hề gì, Đông Dương vẫn kiêu hãnh có hạm đội của mình và có những Xarô của mình. - Thế cậu nói với tớ làm gì? Tớ sẽ là một thằng vô ơn bội nghĩa. - Để bảo cậu rằng tớ sẽ là một thằng vô ơn bội nghĩa nếu không đưa ngài thượng thư thuộc địa của chúng ta vào Viện hàn... lâm. - Với tư cách là đô đốc Hạm đội Đông Dương à? - Đâu có. Tư cách chủ nhiệm khoa giải phẫu. - ...? - Phải. Giải phẫu. Ông ta ở đấy là hợp khít. Thế cậu không nghe ông ta nói về "bàn giải phẫu" ở Quảng trường Hoà hợp2) sao? Cậu không biết là cả trường đại học y khoa nhốn nháo cả lên vì cái bản tuyên ngôn khoa học của Cụ lớn à? "Ngài yêu quý nhiệm vụ đến quặn cả lòng. Niềm say đắm đối với nỗi cùng cực cao cả gắn những cơn sốt nóng của nó vào da thịt ngài. Nó hoà lửa của nó vào máu ngài, trong huyết quản ngài, cũng như vào đường gân ngài, thớ thịt ngài, cứ như chiếc áo lửa của Nétxuy bám lấy hông lấy cật". Tôi thích ngài thượng thư nói. Tôi thích nhìn những đội ngũ đông đảo của họ... Tiếng hô lúc này thốt ra từ lồng ngực tôi... rót vài dòng trong huyết mạch tôi chất độc ác nghiệt mà thánh thần... Có những kẻ mặt tối tăm không bao giờ có ánh sáng lung linh soi đến. Những lời xưa kia thốt lên từ trái tim vĩ đại nhất... vân vân... Cậu nghĩ xem với những bắp thịt, những đường gân, cái... mặt và những đội ngũ ấy, có thể nặn ra được một vị khai hoá cừ lắm chứ, trừ phi... Nhưng thôi, ta hãy đi uống vại bia, chúc sức khoẻ Ai Cập Hoàng đế chứ? Nguyễn Ái Quốc Báo Le Paria, số 12, tháng 2-1923 và số 14, tháng 5-1923. ============================ NHỮNG NGƯỜI LÀM CÔNG TỔ CHỨC LẠI, CHỐNG BÓC LỘT CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN Mặc dầu nền công nghiệp lớn và cơ khí lớn chưa được phát triển hoàn toàn ở Trung Quốc, những tập tục gia trưởng chưa mất hẳn, công nhân Trung Quốc bị hai tầng áp bức của tư bản nước ngoài và của bọn quân phiệt bản xứ, đã bắt đầu hoạt động mạnh. Có khoảng một triệu người lao động đã chịu ảnh hưởng (trực tiếp hoặc gián tiếp) của sự tuyên truyền nghiệp đoàn và cách mạng. Liên hiệp hải viên công hội Hồng Công có 30.000 hội viên. Họ đã phát động một cuộc đình công bốn tháng (từ tháng 12-1921 đến tháng 3-1922). Để tỏ tình đoàn kết, quần chúng ngoài công hội đã tuyên bố tổng đình công. Những người thợ giặt và những người phục vụ cũng hưởng ứng phong trào. Kết quả là công nhân được tăng lương từ 20 đến 40%. Liên hiệp hải viên công hội Thượng Hải có 15.000 hội viên. Một cuộc đình công ba tuần đã được tuyên bố tháng 7-1922. Kết quả là công nhân được tăng lương 20%. Công nghiệp bông sợi sử dụng 72.300 công nhân, phần lớn là phụ nữ và trẻ em dưới tám tuổi. Ngày làm việc 12 giờ. Nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra đòi cải thiện điều kiện làm việc. 93 xí nghiệp dệt tơ lớn sử dụng 130.000 phụ nữ và thiếu niên nữ từ 8 đến 14 tuổi. Họ làm việc 11 giờ mỗi ngày. Do hơi nóng của nước sôi thường xuyên toả ra và mùi khai của kén tằm, nên điều kiện làm việc của những nữ công nhân đó vô cùng khó khăn. Tháng 6-1922, một nữ công nhân đã chết vì tai nạn lao động do chữa cháy kém. Một cuộc đình công tự phát bùng nổ để phản đối. Cuộc đình công đó được các xí nghiệp dệt ở Thượng Hải hưởng ứng. Kết quả là giờ làm việc hằng ngày giảm xuống hai giờ. Một cuộc đình công của thợ dệt Nam Kinh đã ngăn cản được độc quyền tơ sợi của thành phố sợi vào tay một tập đoàn kinh doanh Nhật. Cuối năm 1921, những người làm thuê cho chủ xe kéo nước ngoài, bao gồm 3.000 người tham gia nghiệp đoàn, đã đình công. Vì việc giảm lương được thực hiện do sáng kiến của các chủ người Pháp (900 xe kéo), nên những người đình công đói rách đã tổ chức một đoàn "ăn xin" tuần hành trong tô giới Pháp. Cảnh sát Pháp giải tán cuộc biểu tình và bắt giam những người lãnh đạo. Cần nhớ rằng: bọn chủ Pháp có toà án và nhà giam riêng để xét xử và giam giữ những người culi xe không thể trả nổi tiền thuế. Những người bị bắt giam bị đối xử tàn tệ và nhiều người đã chết. Những năm gần đây, có khoảng 200 culi xe bị bọn chủ giết hại. Trong số 20 tờ báo xuất bản ở Hán Khẩu, công nhân có hai tờ báo hằng ngày và một tờ báo hằng tuần. Mặc dầu bọn tư bản nước ngoài và tư bản bản xứ cố hết sức dập tắt hoặc ngăn cản mọi phong trào giải phóng, nhưng những người công nhân Trung Quốc được sự giúp đỡ mạnh mẽ của những người trí thức tận tụy, đã tổ chức lại một cách nhanh chóng và hành động tốt đẹp. Nguyễn Ái Quốc Báo La Vie Ouvrière,ngày 16-3-1923. ============================ CUỘC BẠO ĐỘNG Ở ĐAHÔMÂY Những nô lệ của Gơbekhandin, hơn 30 năm trước đây, đã thoát khỏi ách nô lệ của Đốtxơ và Lơben, là những anh hùng của những chiến công vang dội một thời, - bây giờ lại được làm quen với nước Pháp "văn minh". Cần phải nói thẳng ra rằng, vì lý do đó mà những vị quan cai trị thực dân của chúng ta đã nâng người Đahômây lên cái danh hiệu là công dân nước Pháp. Đây là một số chi tiết về những sự kiện, trong đó, các nhà tư bản thực dân đối xử với những người bãi công ở Poóctô - Nôvô giống như họ đang đối xử với công nhân ở Havrơ và Xarơbuy Ken. Ngày 12 tháng 2, - ngày hôm sau khi ông Hăngri Misen, đại biểu của Hội đồng thuộc địa tối cao đi khỏi, - một làn sóng kích động đột nhiên bao trùm toàn dân thành phố Poóctô - Nôvô; bắt đầu những cuộc biểu tình kèm theo những cuộc bãi công của công nhân bản xứ làm việc trong các công trường xây dựng của thành phố. Ngày 18 tháng 2, những người biểu tình tổ chức một cuộc họp toàn thể. Cảnh sát đã giải tán họ và bắt đi 10 công nhân. Cuộc chiến đấu bắt đầu. Những nhóm công nhân bãi công, có nhiều người dân bản xứ tham gia, đã chiếm các bốt gác ở xung quanh Poóctô - Nôvô và đuổi hết cảnh sát khỏi các bốt gác ấy. Sau đó, đã xảy ra cuộc đụng độ đầu tiên giữa những người bạo động với lính bộ binh do viên quan cai trị - ông Satxeclô, cấp tốc phái đến. Quân đội nổ súng. Nhưng những người đình công cũng đã được vũ trang. Họ đã bắn trả. Trên mặt đất còn lại năm người chết: một viên cai và bốn người dân bản xứ. Sự kích động tăng lên. Theo lệnh của ông Méclanh, toàn quyền Tây Phi, tình trạng giới nghiêm được ban bố trong tất cả các khu ở Poóctô - Nôvô. Ba trung đoàn lính bộ binh có súng máy và pháo dã chiến được đưa xuống tàu vận tải "TSáT" ở Đaca. Ngoài ra, chiếc tàu tuần tiễu "Cátxiôpê" được đưa ngay lập tức đến Poóctô - Nôvô. Cùng một lúc với việc điều động lực lượng quân đội, người ta tiến hành các cuộc bắt bớ. "Mười người thủ xướng", trong đó có Uybeliu và Êchiên Têtê, bị bỏ tù. Những cuộc đàn áp tàn nhẫn diễn ra khắp nơi. Người ta đã buộc công nhân Poóctô - Nôvô trở lại làm việc bằng lưỡi lê và dùi cui. Nhưng làn sóng kích động vẫn lan rộng ở nông thôn. Các báo thuộc địa, đặc biệt là tờ Dépêche Coloniale đòi thi hành ngay những hình phạt tàn khốc và chuyển vận mệnh của Đahômây sang cho những bàn tay cứng rắn hơn. Chúng ta phải rút ra những kết luận nghiêm túc từ những sự kiện này, cụ thể là: trong các thuộc địa, công nhân đã bắt đầu hiểu thế nào là đấu tranh giai cấp. Cần phải làm thế nào để cho công nhân da đen và da vàng cũng hiểu rằng: Kẻ thù duy nhất của họ nằm ngay trong bản thân cái chế độ này, chế độ đang dẫn đến một chế độ nô lệ tinh vi hơn, nặng nề hơn, và vô nhân đạo hơn chế độ trước đây. Và chỉ với sự giúp đỡ của những người anh em bị áp bức của mình ở các nước châu Âu, họ mới sẽ có thể tự giải phóng được mình. Nguyễn Ái Quốc Báo L'Humanité, ngày 18-3-1923. In trong sách: Hồ Chí Minh, Những bài viết và nói chọn lọc, tiếng Nga, Nxb, Chính trị quốc gia, Mátxcơva, 1959, tr.56-57. ============================ KHỞI NGHĨA Ở ĐAHÔMÂY Lo lắng vì giai cấp công nhân ở chính quốc đã thức tỉnh, chủ nghĩa tư bản Pháp tìm cách dùng các thuộc địa để củng cố nền thống trị đang lâm nguy của nó. Nó bòn rút ở đó cả nguyên liệu cho các nhà máy của nó, lẫn nhân lực để chống lại cách mạng. Báo chí tư sản ở Pari và các tỉnh thường xuyên dành hàng trang cho mục thuộc địa. Các tướng lĩnh và các nghị sĩ đã đi khắp cả nước để tổ chức các cuộc nói chuyện về thuộc địa. Những cây bút đạo đức ấy và những ông chuyên nghề khoác lác ấy không tìm đâu ra cho đủ lời lẽ để ca ngợi lòng trung thành của người bản xứ và ân huệ của công cuộc khai hoá "của họ". Đôi khi, các ngài ấy trơ tráo đến mức đem so sánh sự cướp bóc của người Anh ở thuộc địa với sự cao cả của riêng họ: họ cho chính sách của người Anh là "phương pháp tàn nhẫn" hoặc "thái độ thô bạo" và quả quyết rằng cách làm của người Pháp đầy chính nghĩa và dịu dàng ! Chỉ cần ghé mắt nhìn qua các thuộc địa một chút cũng đủ thấy công cuộc khai hoá đó là "đẹp đẽ và dịu dàng" biết là chừng nào. Ở Đông Dương, dạo vừa rồi, có một gã thực dân Pháp trẻ tuổi đã trói một người An Nam, đặt nằm sấp xuống đất, chân và đầu buộc vào hai cái cọc đóng xuống đất, rồi giáng cho người đó một trăm sáu mươi gậy. Nạn nhân, mình mảy nát nhừ, lại bị bỏ vào nhà giam suốt một đêm. Sáng hôm sau, gã trẻ tuổi đi khai hoá đó lại choảng sưng đầu nạn nhân và lấy chuôi súng lục đập vỡ một mắt của người ấy. Tên súc sinh đó đã được toà án Pháp tha bổng. Ở Đahômây, người ta tăng thêm thuế má vốn đã quá nặng nề đối với người dân bản xứ. Người ta bắt thanh niên phải bỏ nhà cửa và ruộng nương đi làm "những người bảo vệ văn minh". Người ta cấm dân bản xứ giữ vũ khí để tự vệ chống thú dữ vẫn thường phá hoại hàng xã một. Giáo dục, y tế đều không có. Trái lại, người ta không từ một thủ đoạn nào để bắt người Đahômây "được bảo hộ" phải chịu cái kiếp lầm than của người dân bản xứ, cái chế độ đã hạ con người xuống hàng con vật và làm điếm nhục cho cái gọi là thế giới văn minh. Dân bản xứ, không nhịn nhục được nữa, vùng lên. Thế là cuộc đàn áp đẫm máu được tiến hành. Người ta dùng những biện pháp cương quyết. Người ta đưa quân đội, súng liên thanh, súng cối và tàu chiến đến; người ta hạ lệnh giới nghiêm. Người ta bắt bớ và bỏ tù hàng loạt. Đấy, đức nhân từ của công cuộc khai hoá như thế đấy. Nguyễn Ái Quốc Báo La Vie Ouvrière, ngày 30-3-1923. ============================ CHỦ NGHĨA QUÂN PHIỆT THỰC DÂN Chúng tôi đã nói rằng, việc bắt lính ráo riết là một trong những nguyên nhân thúc đẩy người Đahômây đứng lên bạo động. Trước hết, chúng ta thấy ngay một sự bất bình đẳng nổi bật: người Pháp chỉ phục vụ trong quân đội hai năm, còn người bản xứ thì phải phục vụ ba năm. Sau khi bỏ ra 36 tháng tuổi thanh xuân tươi đẹp của mình để bảo vệ tự do và công lý (?), người dân bản xứ được giải ngũ lại chịu sự tác động của đạo luật về người bản xứ trong đó không có tự do và công lý! Song sự bất bình đẳng ấy cũng có cái tốt: nó gây ra cho tất cả những người bản xứ cái tâm trạng chống chủ nghĩa quân phiệt. Sự tàn ác của bọn bắt lính ở các thuộc địa tinh vi tới mức thậm chí người Pháp ở chính quốc cũng không thể hình dung được một cái gì giống như thế. Trong thời gian chiến tranh, những viên chỉ huy mang lính đi hết làng này sang làng khác buộc chính quyền bản xứ cung cấp ngay lập tức số người cần thiết để đưa vào quân đội. Lẽ nào một sĩ quan Pháp tháo vát lại không biết tra tấn những người cha và những người mẹ của những người Xênêgan trẻ tuổi đang lẩn trốn khi ông ta xuất hiện, để buộc họ phải chui ra khỏi những nơi ẩn nấp của họ và khoác bộ áo lính Duavơ? Lẽ nào hắn lại không bắt các ông già, phụ nữ có mang, thiếu nữ, buộc họ phải cởi trần truồng và đốt quần áo của họ ngay trước mắt họ. Trần truồng, bị trói, những nạn nhân bất hạnh buộc phải chạy khắp làng dưới trận mưa roi để làm "gương". Một người phụ nữ cõng con đằng sau lưng buộc phải xin phép được cởi trói một tay để đỡ lấy đứa bé cho khỏi ngã. Hai cụ già đã ngã bất tỉnh nhân sự trong cuộc chạy ấy. Những em gái bị hành hạ như thế đã hành kinh trước tuổi, một phụ nữ có mang, đứa con sinh ra đã bị chết, một phụ nữ khác thì đứa con sinh ra đã bị mù. Nguyễn Ái Quốc Báo La Vie Ouvrière,ngày 13-4-1923 ============================ TINH HOA CỦA XỨ ĐÔNG DƯƠNG Trong đám tang toàn quyền Lông, ông Nguyễn Khắc Vệ, tiến sĩ khoa luật học, tiến sĩ khoa chính trị học và kinh tế học, làm việc tại Toà Biện lý Sài Gòn, đã quả quyết rằng, nếu có thể phát biểu thay toàn thể nhân dân Đông Dương, thì ông chắc chắn rằng, tiếng nói đó sẽ đau thương tỏ lòng tri ân toàn quyền về tất cả những gì mà toàn quyền đã ban cho dân tộc An Nam. Và ông Vệ trân trọng lớn tiếng: "Và những ai, nhờ vào những biện pháp khoan dung của Ngài, ngày nay, đang cùng các vị đại diện của nước bảo hộ góp phần vào công cuộc phồn vinh ngày càng tăng tiến của xứ Đông Dương, sẽ cất lên từ đáy lòng mình lời tri ân Ngài và lòng sùng kính đối với anh linh Ngài. Vấn đề kinh tế là điều mà Ngài quan tâm hơn hết. Ngài từng mong muốn trang bị cho Đông Dương mọi khí cụ kinh tế sao cho nó trở thành một nước Pháp thứ hai, một nước Pháp Viễn Đông hùng cường, một con đỡ đầu của nước Pháp cộng hoà". "Trong sứ mệnh của Ngài, Ngài đã toàn tâm toàn ý khai hoá cho một dân tộc bị ngừng trệ trên con đường tiến bộ vì một tổng hợp điều kiện lịch sử và khí hậu. Ngài là vị quán quân của tiến bộ, là sứ giả của công cuộc khai hoá...". Về phần mình, ông Cao Văn Sen, kỹ sư, Chủ tịch Hội những người Đông Dương, thì nói rằng, việc ông Lông chết quá sớm là một cái tang cho toàn cõi Đông Dương. Rồi ông kết thúc bài điếu văn bằng những lời sau đây: "Bẩm quan Toàn quyền, chúng tôi thành tâm than khóc Ngài vì đối với tất cả chúng tôi, Ngài là một thủ hiến, một người cha nhân hậu"...................... Từ sự việc trên, tôi đi đến kết luận rằng: Nếu quả thực tất cả những người An Nam đều cũng luồn cúi sát đất như hai đứa con này của guồng máy cai trị thì quả thực là dân này xứng đáng với cái số phận được cho. Nguyễn Ái Quốc Báo Le Paria, số 13, tháng 4-1923. ============================ BÁO CÁO GỬI BAN BIÊN TẬP VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA BÁO LE PARIA Dự án ban đầu là trước hết thành lập một hợp tác xã xuất bản. Dự án đó không thực hiện được do các đồng chí chưa hăng hái đóng góp, mặc dù chúng ta đã kêu gọi nhiều lần và việc làm này chúng ta tốn kém 120 phrăng. Một nhóm nhỏ tám đồng chí cam kết dù sao cũng phải cho xuất bản ngay tờ Le Paria. Đã có những lời hứa như sau: Blôngcua cho 100 phrăng mỗi tháng, Hátgiali: 50, Mônnécvin: 50, Xtêphani: 25, Nguyễn ái Quốc: 25, Ônôriơ: 10, Ralaimônggô: 10, Phuốcnirê: 10. Tổng cộng là 280 phrăng. Le Paria bắt đầu ra mắt ngày 1-4-1922, cho đến ngày 31-12-1922, ngân sách của nó chia ra như sau: Thu: A- Tiền quyên góp của các đồng chí nói trên: Ralemônggô: 50 phrăng, Nguyễn ái Quốc: 175, Mônnécvin: 100, Blôngcua: 0, Ônôriơ: 10, Hátgiali: 200, Xtêphani: 50, Phuốcniê: 0. Tổng cộng là 585 phrăng. B- ủng hộ báo từ 1-4 đến 31-12-1922: 593 phrăng. C- Tiền bán báo dài hạn 141 x 3 = 423 phrăng. D- Tiền bán báo lẻ từ số 1 đến số 9 = 170 phrăng 40. Tổng số thu là: 1.771 phrăng 40. Chi: - Chi phí ban đầu (kể cả số tiền 120 phrăng nói ở trên): 170 phrăng. - Đồ dùng: 34,80 - Cước phí bưu điện: 156,80 - Chi phí tiền in: 2.483,80 Tổng số chi là: 2.845,40. Ngoài số chi nói trên còn ba quý tiền thuê nhà hết 900 phrăng do sự ủng hộ của các đồng chí đài thọ, đặc biệt do số tiền 450 phrăng đồng chí Blôngcua nhận được từ Đahômây. ... Xin nhận xét rằng, trong chín tháng qua, trong số tám đồng chí hứa cho tiền hằng tháng, thì có: 1 đồng chí đi vắng không đóng xu nào, 1 chưa đóng, 1 mới đóng 1 tháng, 2 đóng 2 tháng, 1 đóng bốn tháng, 1 đóng năm tháng, 1 đồng chí đóng đầy đủ1). Để trả được số nợ cũ cho chủ nhà in và tìm một nhà in khác với điều kiện thuận lợi hơn cho báo, thì các đồng chí cần giữ đúng những lời đã hứa góp tiền. Từ 1-1-1923, quyết định ra báo hai kỳ một tháng và ra bốn trang, trang bốn dành đăng quảng cáo để tờ báo có thể sống được. Nhân dịp này, các đồng chí quyết định nộp tiền trả ngay tiền in số 10 là 535 phrăng. Từ 1-2, việc cho đăng quảng cáo phải mang lại một số tiền đủ cho việc ra báo. Đồng chí Xtêphani được giao tổ chức việc lấy quảng cáo. Mặc dù việc quảng cáo mới được đặt ra và do đó chưa được hưởng ứng nhiều, mới đem lại cho các số báo 10, 11 và 12 một số tiền ít ỏi, đồng chí Xtêphani bảo đảm với chúng ta rằng, với các số tới, ngân sách 1923 sẽ được cân đối, do đó Xtêphani hứa rằng, từ số 13 sẽ không yêu cầu các đồng chí đóng góp nữa. Xtêphani tin chắc rằng trong tương lai rất gần, việc nhận đăng quảng cáo không những có thể giúp trang trải tiền thuê in báo mà còn có thể trả công cho một đồng chí chuyên trách gánh mọi công việc của tờ báo như gửi thư đi, kiểm soát, giữ thường trực, v.v., và còn trả được tiền thuê nhà. Trong khi chờ đợi, các đồng chí phải chịu bỏ tiền ra để trả tiền thuê nhà. Hãy dũng cảm, có nghị lực và bắt tay vào việc. NGUYỄN ÁI QUỐC Viết cuối 1922. In trong sách Thời thanh niên của Bác Hồ, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1976, tr. 179-181. Bài in trong sách Thời thanh niên của Bác Hồ. ============================ CÁC VỊ THỐNG TRỊ CỦA CHÚNG TA Thế là xong: số phận của 20 triệu dân An Nam mong muốn sắp được trao vào tay ông Mácxian Méclanh. Anh sẽ hỏi tôi: Cái ông Méclanh ấy là ai ư? Chả gì thì đây cũng là một ông đã là quan cai trị các đảo Gămbiê, rồi Phó toàn quyền Tây Phi, rồi Toàn quyền thuộc địa này. Đó là một vị đã bỏ ra 36 năm cuộc đời mình để nhồi vào các cái sọ dân bản xứ về tất cả cái nền văn minh đầy ân huệ của nước Pháp. Có lẽ anh sẽ bảo tôi rằng, thực là một tấn trò hề Đông Dương to đùng khi đưa Ngài lên cai trị một đất nước mà Ngài không biết gì về nó cả. Thì, đúng thế! Nhưng đó là cái mốt mà một bạn đồng nghiệp, hôm nọ cho biết ông đã thấy chễm chệ ngồi ở vụ Tây Phi thuộc Pháp của Bộ Thuộc địa một cựu công sứ ở Đông Dương. Một cựu công sứ khác ở Tây Phi thì lại đảm nhiệm việc châu Phi xích đạo. Một cựu quan chức ở Xuđăng thì lại được chọn để phụ trách các vấn đề về Mađagátxca, trong khi đó, ở Hội chợ thuộc địa, người đại diện cho Camơrun lại là một quan chức chưa hề đặt chân lên nước này bao giờ. Vả lại, cần quái gì, nếu quyền lợi của nước Pháp có bị Méclanh quản lý tồi thì đã sao, miễn là quyền lợi cá nhân của ông bộ trưởng được phục vụ tốt. Tờ "Petit Bleu" bàn về sự bổ nhiệm tân thái thú đã nói thế này: "Đừng có mà lầm; không phải lòng tham của ông Méclanh đã lái ông ta mà là lòng tham của ông Xarô đã gây ra mọi tai hại". Quả vậy, ông Xarô thì, như chúng tôi đã nói và chán vạn người cũng đã nói, muốn trở lại Đông Dương và chắc chắn ông ta sẽ là người thế chân ngay ông Lông, nếu không có cuộc bầu cử nghị viện sắp diễn ra chừng mươi tháng tới. Thế nhưng, tuy có thèm muốn làm Toàn quyền Đông Dương đấy, ông Xarô lại không muốn vì thế bỏ chức vụ ở nghị viện. Dân gian có câu tục ngữ: "Số phận ai hay sẽ thế nào". Nghị sĩ hạ viện hay nghị sĩ thượng viện, thì biết đâu một sớm kia tỉnh dậy lại chả thấy mình là bộ trưởng, còn có thể là thủ tướng nữa ấy chứ; còn nếu chỉ là toàn quyền, nghĩa là viên chức, thì không làm bộ trưởng được. Vậy thì vấn đề là hãy đặt ở Đông Dương một quan chức có thể gọi là tạm quyền, để đến mùa xuân sang năm, sau kỳ bầu cử nghị viện, thì ông Xarô sẽ dễ dàng thế chân. Thế là ông nghĩ ngay đến việc chọn ông Méclanh vào cái vị trí chả thú vị gì ấy, bởi vì ông này sắp mãn hạn làm việc, chả bao lâu nữa ông đã đủ quyền về hưu. Đó, vì sao ông Méclanh sắp lên đường sang Đông Dương, vì sao bao nhiêu công việc hữu ích mới bắt đầu ở Tây Phi bị ông xếp xó, vì sao ở Viễn Đông, ông sẽ chẳng làm việc gì đáng kể mà chắc sẽ chỉ làm cho xong việc sự vụ vì biết rằng mình cũng chẳng ở bao lâu, và vì sao nữa ở cái "Cộng hoà Cẩm mà lách với nhau" này, tất cả đều bị bỏ qua, tất cả đều tụt dốc, tất cả đều ngày càng tồi tệ, vì quyền lợi cá nhân của ông này hay ông nọ bao giờ cũng đều đặt lên trên quyền lợi chung của đất nước. Nguyễn Ái Quốc Báo Le Paria, số 14, tháng 5-1923. ============================ KHÔNG PHẢI CHUYỆN ĐÙA Có thể bảo các ông nghị là những người thuộc một giống người khác. Từ giống những người được trúng cử, đúng là như vậy. Họ là kẻ dám làm mọi việc, kể cả việc đùa dai. Kẻ được trúng cử nọ, bị tố cáo là lậu thuế, hay lừa đảo - thì cũng thế - đã không ngần ngại chất vấn ông Bộ trưởng Bộ Tài chính về những biện pháp ông ta định dùng để ngăn chặn sự bép xép của viên chức ông ta! Kẻ trúng cử kia.... Nhưng thôi, cho qua, và xin nói rằng, những ông nghị ba hoa nhất vẫn là những người trúng cử thuộc địa. Người ta còn nhớ: các vị đáng kính ấy đã đưa ra một kiến nghị thỉnh cầu Chính phủ Pháp cho niêm yết và đem dạy trong tất cả các trường trung học, tiểu học, đại học, ký túc xá, nhà trẻ, học viện rằng nước Pháp là một nước 100 triệu dân. Không hơn không kém một người. Và thế là cả giới báo chí dại dột và chẳng nghĩ rằng, cái kiến nghị khôi hài ấy có thể dẫn người Pháp đến những hậu quả nghiêm trọng, cứ hoan hô ầm ĩ cả lên! Đến nay, nếu kiến nghị ấy được chấp nhận thì sẽ thế này này: Tất cả những ông bà ta ở Bộ Thuộc địa - trước hết là ông Anbe Xarô sẽ chết đói, vì phó mát thuộc địa sẽ tự nhiên bị cắt mất. Liên đoàn phục hồi dân số sẽ biến mất và Ngài giáo chủ Binđria sẽ không thể giảng cái thuyết đẻ mắn như thỏ ở Viện Hàn lâm Pháp nữa. Vì khi sẽ có 100 triệu người Pháp so với 60 triệu tên "bôsơ" thì người ta sẽ không có quyền, dù là một vị giáo chủ nói đến chuyện hụt dân số nữa. Tất cả sách của ông Môrítxơ Barét và tất cả những bài báo của ông Phorét (Lui) chỉ đáng đem mà... đốt cả đi vì dù có quyền thế đến đâu, thì các vị cũng không thể cho rằng máu latinh đang chảy trong huyết quản của người An Nam hay người Đahômây. Và khi mà không còn thuộc địa nữa thì binh sĩ vinh quang của chúng ta sẽ đi đánh chác ở đâu cho đỡ buồn tay? Biết gửi đi đâu những vị thống soái hết thời, những nhà chính trị thất cơ lỡ vận, bọn giết người không may, như ông Bốp và những người khác? Phải hàng tập sách, hàng tập sách để miêu tả mọi điều bất tiện xảy ra nếu kiến nghị ấy được chấp nhận. Còn chúng tôi nữa, chúng tôi cũng hết sức hoan nghênh nó, nhưng dĩ nhiên với ý nghĩa khác. Một khi chúng tôi là người Pháp, lập tức chúng tôi sẽ gửi một đoàn khai hoá đến khắp nước Pháp. Chúng tôi sẽ làm cho đất nước người Gôloa ngập lụt rượu và thuốc phiện. ở đây, chúng tôi sẽ đánh thuế muối, thuế nhập thị, sẽ cho bắt giam theo lệnh hành chính, phạt tiền tập thể, sẽ cho mở những toà án đặc biệt để đàn áp, hoạt động thường xuyên, lập kiểm duyệt, v.v. và v.v.. Nói gọn lại, chúng tôi sẽ làm lại ở đây tất cả những gì mà những kẻ nguyên là bề trên của chúng tôi đã làm trên đất nước chúng tôi, cho chúng tôi hoá ra là người Pháp. Chúng tôi sẽ cấm tất cả các báo, cả báo Le Matin và báo Le Petit Parisien. Chúng tôi sẽ bãi quyền tự do đi lại, tự do hội họp. Chúng tôi sẽ đưa những người sinh đẻ ở đây vào chế độ bản xứ, xiết bao êm ái và tốt lành, mà chúng tôi, người An Nam, người Mangát, người Phi châu chúng tôi đã được hưởng từ lâu. Chúng tôi sẽ bắt những thanh niên Pháp phải "tình nguyện" nhập ngũ, không phải 18 tháng, mà là ba, là bốn năm. Nếu cần, chúng tôi sẽ gửi họ đi cho người ta giết chết, để bảo vệ Tổ quốc và bảo vệ két sắt của chúng tôi. Chúng tôi sẽ chọn những cô gái Pháp trẻ, đẹp, cho đến Đông Dương, Ăngtiơ, Mađagátxca, châu Phi, làm con đòi, mỗi tháng 40 phrăng. Chúng tôi sẽ là Tổng thống nước Cộng hoà Pháp, Bộ trưởng, thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ. Chúng tôi sẽ là những nhà khai hoá, những nhà bảo hộ, những kẻ bài xích người bản xứ, những kẻ thân người bản xứ. Chúng tôi sẽ cai trị người Pháp, và khi bực mình, có thể gọi người thổ dân - như chúng tôi đã từng bị gọi như thế cho đến nay- là những thằng Nhà quê bẩn thỉu, hay lũ "dê con" bẩn thỉu. Đúng là sẽ đến lượt chúng tôi, phải không? Nguyễn Ái Quốc Báo Le Paria, số 15, tháng 6-1923. ============================ DIỂN ĐÀN ĐÔNG DƯƠNG Nhờ độ lượng mẫu từ của nước Pháp bảo hộ, Đông Dương thật đã trở thành một chỗ náu thân cho bọn làm bậy. Ông Bôđoanh mặc dù có bị tố cáo hẳn hoi về tội giả mạo và dùng giấy tờ giả mạo, bây giờ cũng cứ là toàn quyền. Ông Đáclơ nguyên bán cháo, trước là quan cai trị tỉnh, bị lên án là ăn hối lộ, là cường hào và đã gây ra cuộc nổi dậy đẫm máu ở Thái Nguyên, đã được chính phủ thuộc địa cử vào Hội đồng thành phố Sài Gòn. Ông Têa, kỹ sư và giám đốc một hãng buôn lớn, bị tố cáo là có tội nhũng lạm mà không bị rầy rà gì. Giờ đến lượt Buđinô, viên quan cai trị này bị kiện: đã đút túi số tiền lời một cuộc chợ phiên tổ chức nhân dịp khánh thành tượng đài tử sĩ; đã đòi và nhận một món tiền "bồi thường" lớn trả cho sự có mặt của mình trong buổi chôn cất một mụ nhà giàu bản xứ, đã đòi những món tiền lớn chè lá khi cấp một giấy phép hay giấy lệnh nào đó. Cuối cùng, đã lợi dụng, trong mọi trường hợp quyền hành quan cai trị (mà nước Pháp có chủ quyền đã uỷ thác cho) để làm đổ mồ hôi sôi nước mắt người bị trị và để cho phình ví tiền của ông ta. Nhưng lời kết tội nặng nhất là thế này: Làng Tân An (Nam Kỳ) có một nhà máy điện. Việc khai thác có lợi và phố xá, nhà cửa trong làng có điện sáng mà không phải trả tiền. Quan cai trị Buđinô buộc làng phải nhượng không nhà máy cho một anh thầu khoán đã có vi thiềng cho ông ta. Ít lâu sau, làng phải trả tiền điện dùng ngoài phố và trong nhà. Thấy hàng nghìn điều bất lợi, họ mới biết mình tự quản nhà máy thì lợi hơn. Họ phải bỏ ra mấy chục ngàn đồng để chuộc lại cái mà họ đã phải "nhượng không". Lần thứ hai này, vị quan cai trị đút túi thêm mấy tờ bạc lớn nữa. Bị kiện vì tội buôn bán người chết, bóc lột người sống, tham ô lộ liễu, quan cai trị Buđinô vừa được công lý Pháp cho trắng án. Ngày mai có thể ông ta còn được huân chương. Bao giờ người ta cũng vì uy tín chủng tộc, mà xá tội cho lũ "vô lại khả ố". Bao giờ người ta cũng nhân danh nhân dân Pháp mà bắt công lý làm đĩ bợm. Văn minh là như thế đó. Nguyễn Ai Quốc Báo Le Paria, số 15,tháng 6-1923. ============================ TRÒ MÉCLANH Trong khi chờ đợi đi khai hoá những người Đông Dương tại Đông Dương, ngài thái thú Méclanh muốn hãy khai hoá những người Đông Dương đã chết, các người biết đấy, những người chết cho Tổ quốc, cho công lý, và vân vân, ở Pháp. Cười ở nghĩa trang là một cái thú của những bậc vĩ nhân1), nhưng ở đấy mà cười một mình thì có thể là vô duyên. Vì vậy, bữa nọ, quan lớn Mácxian Méclanh ra lệnh cho đoàn thanh niên Annamít được trợ cấp theo ngài đến Vườn Người Chết ở Nôgiăng trên sông Mácnơ vì ở đó sẽ được đọc một bài diễn văn do ngài chứng giám. Bài diễn văn trước khi đọc cho công chúng, phải trình lên quan lớn để ngài duyệt. Người ta đã trình và bài diễn văn bị coi là quá ngỗ ngược, quan lớn ra lệnh cứ việc bỏ đi để thay thế bằng một bài khác mà quan lớn cho dàn ý. Cố nhiên, bài diễn văn xào nấu trong các thứ nước cốt của quan lớn như vậy, thì hương vị của lòng trung thành và lòng ái mộ bất diệt đối với nước Pháp phải xông lên đến ngạt mũi... Nếu người chết nói được, như bọn đồng cốt bảo thế, thì những hồn ma An Nam ở Nôgiăng sẽ lên tiếng: "C...ảm ơn ông toàn quyền! Nhưng xin làm ơn... cút đi cho!". NGUYỄN ÁI QUỐC Báo Le Paria, số 15, tháng 6-1923. ============================ THƯ GỬI CÁC BẠN CÙNG HOẠT ĐỘNG Ở PHÁP Các bạn thân mến, Bao lâu nay chúng ta làm việc với nhau. Mặc dầu chúng ta là những người khác giống, khác nước, khác tôn giáo, chúng ta đã thân yêu nhau như anh em. Chúng ta cùng chịu chung một nỗi đau khổ: sự bạo ngược của chế độ thực dân. Chúng ta đấu tranh vì một lý tưởng chung: giải phóng đồng bào chúng ta và giành độc lập cho Tổ quốc chúng ta. Trong cuộc chiến đấu của chúng ta, chúng ta không cô độc, vì chúng ta có tất cả dân tộc của chúng ta ủng hộ và vì những người Pháp dân chủ, những người Pháp chân chính, đứng bên cạnh chúng ta. Công việc chung của chúng ta "Hội Liên hiệp thuộc địa"34 và tờ báo NGƯờI CùNG KHổ1) đã có những kết quả tốt. Nó đã làm cho nước Pháp, nước Pháp chân chính hiểu rõ những việc xảy ra trong các thuộc địa. Làm cho nước Pháp hiểu rõ bọn cá mập thực dân đã lợi dụng tên tuổi và danh dự của nước Pháp để gây nên những tội ác không thể tưởng tượng được. Nó đã thức tỉnh đồng bào chúng ta. Đồng thời nó cũng khiến cho đồng bào chúng ta nhận rõ nước Pháp, nước Pháp tự do bình đẳng và bác ái. Nhưng chúng ta còn phải làm nhiều hơn. Chúng ta phải làm gì ? Chúng ta không thể đặt vấn đề ấy một cách máy móc. Điều đó tuỳ hoàn cảnh của mỗi dân tộc chúng ta. Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập. Có lẽ một vài người trong các bạn cũng phải và có thể làm như tôi. Còn các bạn khác thì tiếp tục công việc hiện thời của chúng ta: củng cố "Hội liên hiệp thuộc địa" và phát triển tờ báo NGƯỜI CÙNG KHỔ của chúng ta. Các bạn thân mến, Tôi từ giã các bạn. Tôi xa các bạn, nhưng lòng tôi luôn luôn gần các bạn. Các bạn tha lỗi cho tôi không hôn các bạn trước khi đi. Các bạn biết rằng tôi bị theo dõi riết. Khi các bạn được thư này, Nguyễn của các bạn ít nhất cũng đã xa nước Pháp 24 giờ rồi. Đại, người đồng hương của tôi, sẽ giao lại cho ông B. thìa khoá của toà báo, giấy tờ và tài liệu của Hội và của tờ báo, cũng như quỹ của tờ báo. Tôi đã trả tiền thuê nhà cho toà báo đến cuối năm. Tiền in cũng đã thanh toán. Chúng ta không mắc nợ ai. Sổ thư viện để ở trong ngăn kéo bên phải. Sách cho mượn đã lấy về, trừ những sách cho những hội viên đi nghỉ mượn. Nói tóm lại, các việc đều đâu vào đấy trước khi tôi đi. Tôi sẽ viết thư cho các bạn. Nhưng tôi không dám hứa với các bạn, vì không phải dễ viết thư khi người ta hoạt động bí mật. Dù tôi có viết thư cho các bạn hay không, các bạn hãy tin chắc rằng lòng tôi luôn luôn yêu các bạn. Nhờ các bạn bắt tay những người bạn Pháp của chúng ta. Bây giờ, một vài lời với cháu trai và cháu gái. Các cháu rất yêu chú và chú cũng rất yêu các cháu, phải không các cháu ? Chú sẽ nói với những người bạn nhỏ Việt Nam là các cháu rất ngoan. Chú sẽ thay mặt các cháu bắt tay các bạn nhỏ Việt Nam. Có lẽ rất lâu, các cháu sẽ không được thấy chú Nguyễn, không được leo lên đùi, lên lưng chú như các cháu thường làm. Và cũng rất lâu chú sẽ không thấy cô Alítxơ (Alice) và cậu Pôn (Paul) của chú. Khi chú cháu mình gặp nhau, có lẽ chú đã già, các cháu đã lớn bằng ba và má. Điều đó không ngại gì. Chú sẽ luôn luôn nhớ đến các cháu. Các cháu luôn luôn vẫn là cô bé Alítxơ và cậu bé Pôn thân yêu của chú. Các cháu ngoan. Học thuộc bài. Vâng lời cha mẹ. Đừng đánh con chó nhỏ Mariuýt (Marius) của các cháu. Khi các cháu đã hơi lớn, các cháu sẽ đấu tranh cho Tổ quốc của các cháu cũng như ba má, chú Nguyễn và những chú khác. Các cháu nhỏ thân yêu của chú, chú hôn các cháu rất kêu. Các cháu hôn mẹ hộ chú. Chú Nguyễn. In trong sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 51-54. Theo bài in trong sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch ============================ THƯ GỬI TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN PHÁP Các đồng chí, Những nghị quyết của Đại hội lần thứ II của Quốc tế35 về vấn đề thuộc địa đã mang lại hai tác dụng đồng thời nhưng lại hoàn toàn trái ngược nhau. Một mặt, chủ nghĩa đế quốc đi áp bức - ngừa trước những kết quả có thể xảy ra của chính sách đó nếu nó được thi hành nghiêm túc - đã đề phòng và tăng gấp bội những hoạt động tuyên truyền, ngu dân và đàn áp. Mặt khác, nhân dân bị áp bức ở các thuộc địa, được tiếng vang của cách mạng thức tỉnh, đã hướng theo bản năng của họ về Quốc tế của chúng ta, một chính đảng duy nhất mà họ hy vọng là sẽ quan tâm đến họ một cách thân thiết, mà họ hoàn toàn mong mỏi là sẽ mang lại cho họ sự giải phóng. Như vậy, chúng ta sẽ có thể không những đánh đổ uy thế của chủ nghĩa thực dân bóc lột và lay chuyển vị trí của chúng, mà còn có thể biến mối cảm tình thuần tuý tình cảm và thụ động của các dân tộc thuộc địa đối với chúng ta thành mối cảm tình hành động, nếu những nghị quyết của Quốc tế được chấp hành. Khốn nỗi cho đến nay, những nghị quyết ấy chỉ được dùng để tô điểm mặt giấy! Phân bộ Pháp, phân bộ Anh và những phân bộ các nước thực dân khác đã làm gì cho các thuộc địa của chủ nghĩa tư bản nước họ? Những phân bộ ấy đã có một chính sách thuộc địa và một cương lĩnh rõ rệt về thuộc địa, chính xác và liên tục chưa? Những chiến sĩ của các phân bộ ấy có hiểu thuộc địa là gì và tầm quan trọng của thuộc địa là như thế nào không? Người ta có thể trả lời là không. Đối với các thuộc địa Pháp, a) một ban nghiên cứu thuộc địa đã được thành lập; b) một mục viết về thuộc địa đã được mở ra trên báo L'Humanité; c) những lời tuyên bố ủng hộ dân chúng thuộc địa đã được phát biểu trong các đại hội toàn quốc; d) hai cuộc hành trình tuyên truyền đã được các đại biểu của Đảng tiến hành. Sau khi được thành lập ít lâu và khi đã giành được không phải là không chật vật những cột báo trên tờ L'Humanité, Ban nghiên cứu thuộc địa đã hoạt động khá tốt. Những tài liệu và tin tức có giá trị đã bắt đầu được gửi từ các thuộc địa đến Ban. Chiến dịch mà Ban tiến hành trên báo Đảng nhằm chống những nhũng lạm và tội ác của bè lũ thực dân, đã nhanh chóng thu hút sự quan tâm mạnh mẽ của dân chúng các thuộc địa và mang lại nỗi lo lắng cho chủ nghĩa đế quốc thực dân và báo chí của nó. Nhưng diễn đàn ấy đột nhiên đã bị báo L'Humanité bỏ đi. Bị tước mất phương tiện công tác và hoạt động, Ban lâm vào tình trạng hoàn toàn bị tê liệt. Điều đó đã làm cho giới báo chí to lớn của giai cấp tư sản rất hài lòng, những báo chí này đã dành rất đều đặn hàng bao nhiêu trang cho công tác tuyên truyền thực dân và luôn luôn sợ bị cải chính và lật mặt nạ. Điều đó đã đặc biệt gây những ấn tượng rất nặng nề cho dân bản xứ. Mặc dầu là hão huyền, những lời tuyên bố trong các đại hội toàn quốc ủng hộ dân chúng các thuộc địa cũng đã góp phần củng cố mối cảm tình mà họ đã có đối với Đảng. Tuy nhiên thật là không thích đáng nếu cứ lắp đi lắp lại mãi một điều mà không làm gì cả. Và những người bị áp bức khốn khổ thấy chúng ta chỉ luôn luôn hứa hẹn nhưng cũng luôn luôn không hành động gì thì bắt đầu tự hỏi rằng không biết thực ra chúng ta là những người đứng đắn hay là những kẻ lừa phỉnh. Cuộc hành trình của các đồng chí Vayăng Cutuyariê và Ăngđrê Béctông qua Angiêri và Tuynidi, tiến hành hầu như cùng một lúc với các cuộc dạo chơi đế vương của bọn đại biểu tư sản, đã được dân chúng châu Phi rất hoan nghênh. Nếu những cuộc hành trình cùng một tính chất như thế được tiếp tục trong tất cả các thuộc địa thì chắc chắn là kết quả sẽ đáng mừng. Nhưng, đáng lẽ phải tăng cường tuyên truyền thì chúng ta lại đã bỏ dở cái việc đã được bắt đầu, và bỏ mất những cơ hội tốt. Bởi thế, chúng ta đã làm rất ít trong khi xảy ra cuộc bãi công đẫm máu ở Máctiních, cảnh chết đói ở Bắc Phi và cuộc nổi dậy ở Đahômây. Trong trường hợp sau chót này, chúng ta đã có một bộ mặt thiểu não. Nhiều ngày sau tất cả các báo tư sản và mười ngày sau báo L'Oeuvre, báo Đảng mới đăng tin về cuộc nổi dậy. Trong lúc chính phủ thuộc địa đã thiết quân luật, tập trung quân đội, huy động chiến hạm, huy động các bộ máy đàn áp, bắt bớ và kết án các nhà hoạt động từ 5 đến 10 năm tù; trong lúc các báo chí viết thuê đã tiến hành một cách có hệ thống một chiến dịch lừa dối và bưng bít dư luận thì chúng ta chỉ viết có hai hay ba bài báo ngắn, rồi thôi. Không phải là không mỉa mai và không đáng buồn khi trong bóng tối của những ngục tù có tính chất khai hoá, những người anh em Đahômây đau khổ của tôi đọc điều thứ 8, trong số 21 điều kiện, nói rằng: "Mỗi đảng cam đoan tiến hành một công tác cổ động có hệ thống trong quân đội nước mình nhằm chống mọi ách áp bức dân chúng thuộc địa; và mỗi đảng phải ủng hộ, không những bằng lời nói mà cả bằng hành động, phong trào giải phóng của các thuộc địa". Nhưng thật là vô ích nếu buộc tội quá khứ và tiếc rẻ thì giờ đã mất. Tốt nhất là biết sử dụng tốt thì giờ trong tương lai. Vậy chúng tôi yêu cầu Đảng: 1) chính thức thừa nhận Liên đoàn Máctiních (nhóm Giăng Giôrét); 2) mở lại mục viết về thuộc địa trong báo L'Humanité; 3) yêu cầu Ban nghiên cứu thuộc địa cung cấp tài liệu cho phân bộ thuộc địa và cứ hai hoặc ba tháng một, báo cáo công tác của mình với phân bộ; 4) ở những nơi đã thành lập phân bộ thuộc địa thì khuyến khích các phân bộ này tăng cường công tác tuyên truyền và tuyển thêm người bản xứ; 5) trên tất cả báo chí của Đảng, mở một mục viết về thuộc địa để làm cho độc giả làm quen với các vấn đề thuộc địa; 6) nói đến các thuộc địa trong hết thảy các đại hội, mít tinh hoặc hội nghị của Đảng; 7) cử các nghị sĩ đi thăm các thuộc địa, mỗi khi nền tài chính của Đảng cho phép; 8) tổ chức những nghiệp đoàn hoặc thành lập các nhóm tương tự ở các thuộc địa. Mátxcơva, tháng 7 năm 1923 Nguyễn Ái Quốc Tài liệu viết tay, tiếng Pháp, lưu tại Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng. ============================ TỆ ĐỘC ĐOÁN Ở ĐÔNG DƯƠNG - NGƯỜI ĐƯỢC BẢO HỘ VÀ NGƯỜI ĐI BẢO HỘ Ông Cẩm Đà Lạt (Trung Kỳ) có một cách hiểu vai trò khai hoá của mình đến là hay. Một hôm, người cộng tác rất xứng của ông Xarô này cần đến ván gỗ. Ông ta sai người đến kiếm ván ở nhà một người bản xứ làm nghề buôn bán. Nhà buôn này đòi phải trả tiền rồi mới được mang hàng đi. Nghe lời yêu cầu này, ông Cẩm nổi giận, phái ngay lực lượng vũ trang đến với nghiêm lệnh là dù "sống hay chết" cũng phải bắt cho được tên An Nam đó về sở. Để tránh cơn giận của vị đại diện cho nước bảo hộ, nhà buôn không kể gì đang ốm cũng đành phải bỏ cả nhà cửa quê hương lánh sang tỉnh khác. Một thầy thuốc người Âu chứng kiến tấn trò kể trên đã can thiệp để bênh vực nhà buôn bản xứ. Vụ can thiệp "chướng tai gai mắt" này làm cho viên thầy thuốc bị đổi đi, bị đày lên Kon Tum, một nơi nước độc mà người Âu rất sợ. Chính đấy là nơi mà viên thầy thuốc đó đang đền cái tội thân người bản xứ của ông. Trong khi ấy thì bọn Đáclơ, Bôđoanh vẫn ung dung phè phỡn trong vinh dự và khoái lạc. Kẻ mắc cái tội xúc phạm uy tín kể trên là bác sĩ Hôngxtarich. Chúng tôi xin tỏ tấm cảm tình của chúng tôi đối với ông ấy. Còn nhà buôn An Nam thì sau ra sao ? Anh ta bị ghi tên vào sổ những người bị tình nghi, liệt vào hạng "chống Tây", vào số những kẻ cần theo dõi. Một bầy mật thám Pháp và An Nam bám riết theo gót anh ta. Nhiệm vụ của bọn này là ghi từng giờ từng phút mọi hành động cử chỉ của anh ta, và tô đen tất cả mọi ý định của anh. Công cuộc theo dõi này được tiến hành một cách khá lộ liễu để làm cho bạn bè quen thuộc của người An Nam này phải chùn lại không dám lai vãng nhà anh nữa, đến nỗi đời sống của anh trở nên hết sức khó khăn. Bất cứ thế nào cũng không một người bản xứ nào dám đến nhà anh. Hoàn toàn bị cô lập với đồng bào của mình, nhà buôn này chỉ còn có hai con đường: hoặc đi ăn cướp, hoặc đi ăn mày. Nhưng cái nghề thứ hai này có thể lại làm cho anh càng đáng khả nghi hơn vì kiếp sống lang thang. NGUYỄN ÁI QUỐC Báo Le Paria , số 16, tháng 7-1923. ============================ ÁCH ÁP BỨC KHÔNG TỪ MỘT CHỦNG TỘC NÀO Vôrốpxki, phái viên của nước Nga công nông đã bị bọn phát xít ám sát ở Thuỵ Sĩ. Không một phái viên nào của các cường quốc rất văn minh và rất sùng đạo Thiên chúa đang họp ở Lôdannơ hạ cố đi đưa đám. Chỉ có phái đoàn Thổ Nhĩ Kỳ do Ixmết Pasa dẫn đầu đã đến nghiêng mình trước thi hài người bị sát hại. Ben Rađia, một công nhân, quê ở Tuynidi đã bị cảnh sát giết ở Pari ngày 1 tháng 5. Các tổ chức công nhân ở Pari đã tổ chức một đám tang lớn. Hàng mấy nghìn công nhân đã nghỉ việc ngày hôm đó để đi đưa người đồng chí bản xứ của mình tới nơi an nghỉ cuối cùng. Tất cả những liệt sĩ của giai cấp công nhân, người ở Lôdannơ cũng như ở Pari, những người Havrơ cũng như những người ở Máctiních, đều là những nạn nhân của một kẻ giết người: chủ nghĩa tư bản quốc tế. Và hương hồn của những người bị hy sinh này luôn tìm thấy nguồn an ủi cao cả nhất ở lòng tin vào sự nghiệp giải phóng những anh em của họ bị áp bức - không phân biệt chủng tộc hay xứ sở. Sau những bài học đau đớn này, những người bị áp bức ở tất cả các nước hẳn phải hiểu đâu là những người anh em thật sự và đâu là kẻ thù của họ. NGUYỄN ÁI QUỐC Báo Le Paria, số 17, tháng 8-1923. ============================ ĐỘI QUÂN CHỐNG CÁCH MẠNG Chúng ta đều biết rằng sự tranh giành thuộc địa là một trong những nguyên nhân chính của chiến tranh đế quốc chủ nghĩa năm 1914-1918. Điều mà tất cả những người Pháp đều không thể không biết đến là việc đưa những đội quân viễn chinh sang các thuộc địa đã làm cho dân số giảm sút một cách trầm trọng mà hiện nay đất nước họ đang phải chịu đựng. Nếu đọc các bản thống kê những sự tổn thất quân sự về người chết và bị thương ở các thuộc địa, thì người ta sẽ phải kinh khủng về sự hao hụt mà những sự tổn thất đó đã gây ra cho một dân số đang mỗi ngày một giảm sút như dân số nước Pháp. Từ tháng 1 đến tháng 6-1923, riêng ở Marốc cũng đã có 840 binh lính bị giết hay bị thương để mang lại quang vinh cho thống chế Liôtây! Điều mà giai cấp công nhân Pháp không thể không biết đến là chủ nghĩa tư bản dựa vào thuộc địa để chống lại tất cả mọi phong trào giải phóng mà giai cấp công nhân Pháp định mưu đồ. Không hoàn toàn tin tưởng những binh lính người da trắng nữa vì họ ít nhiều cũng đã tiêm nhiễm tư tưởng về giai cấp, bọn quân phiệt Pháp lấy những người bản xứ ở châu Phi và châu á để thay thế họ. Trong số 150 trung đoàn của quân đội Pháp, có 10 trung đoàn người da trắng ở các thuộc địa, nghĩa là những người nửa bản xứ; 30 trung đoàn người châu Phi và 39 trung đoàn người bản xứ các thuộc địa khác. Như vậy, một nửa số quân đội Pháp là tuyển mộ ở các thuộc địa. Mà người An Nam phải tòng quân 4 năm, người Angiêri 3 năm; thế là theo sự tính toán của bọn quân phiệt Pháp thì giá trị 2 người lính bản xứ gần bằng 5 người lính Pháp. Hơn nữa, vì không hiểu tiếng nói và chính trị trong nước, không có một mối quan hệ nào ràng buộc họ với dân cư chính quốc, tưởng rằng tất cả những người da trắng đều cùng giống với những người bóc lột họ, và cuối cùng, do những người da trắng cấp trên của họ thúc đẩy, nên người lính bản xứ có thể ngoan ngoãn và mù quáng bước vào chỗ mà người lính Pháp, giác ngộ hơn, có thể từ chối không chịu bước. Nguy hiểm là ở chỗ đó. Người ta tự hỏi vì lý do gì mà 31 trung đoàn trong số những trung đoàn người bản xứ sẽ đóng lại trên lãnh thổ Pháp. Họ sẽ được dùng để làm gì? Phải chăng người ta sẽ dùng những người bản xứ đó để khai hoá cho người Pháp? Như vậy là ý định của chủ nghĩa tư bản Pháp đã rõ ràng. Công nhân Pháp có nhiệm vụ phải hành động. Họ phải kết tình anh em với binh lính bản xứ. Họ phải làm cho binh lính bản xứ hiểu rằng cả công nhân ở chính quốc lẫn binh lính ở thuộc địa, đều cùng bị chung một bọn chủ áp bức và bóc lột, do đó, họ đều là anh em cùng một giai cấp và khi tới lúc phải chiến đấu, thì cả hai bên đều phải cùng đánh bọn chủ chung của mình, chứ anh em không nên đánh lẫn nhau. NGUYỄN ÁI QUỐC Báo La Vie Ouvrière, ngày 7-9-1923. ============================ BÁO CÁO GỬI QUỐC TẾ CỘNG SẢN ĐÔNG DƯƠNG, TÓM TẮT Chính trị Không có chính đảng: Đất nước bị cai trị theo cách như sau: Nam Kỳ và Bắc Kỳ bị cai trị trực tiếp bởi các nhà cầm quyền Pháp với những thuộc hạ người bản xứ. Trung Kỳ và Campuchia có chính phủ bản xứ của mình mà thực tế chỉ là thực hành các mệnh lệnh của các nhà cai trị Pháp. Kinh tế Xí nghiệp, đồn điền, hầm mỏ, giao thông vận tải và thương nghiệp lớn, tất cả đều ở trong tay người Pháp. Thương nghiệp hạng vừa có thể nói là người Trung Quốc nắm độc quyền. Người bản xứ chỉ có thương nghiệp địa phương nhỏ. Xã hội Dân cư hợp thành xã, những xã hợp thành tổng, những tổng thành huyện, những huyện thành tỉnh. Dân cư bầu lấy lý trưởng, những lý trưởng bầu lấy chánh tổng. Cuộc bầu cử của nhân dân dừng lại ở đấy. Những huyện và những tỉnh thì các quan cai trị do chính phủ chỉ định. Triều đình và quan chức lệ thuộc tuyệt đối vào chính quyền Pháp. Họ bị chủ Pháp của họ khinh bỉ và nhân dân An Nam ghét. Thiểu số các nhà nho hay là các nhà trí thức là các nhà cách mạng dân tộc chủ nghĩa. Chính họ đã khích động mọi cuộc nổi dậy trong quá khứ. Công nhân có thể là 2% trong dân số, không được học hành, không được tổ chức. Do vậy họ không có một lực lượng chính trị nào. Tiểu tư sản không nhiều, là một phần tử bấp bênh. Nó chịu sự chi phối bởi nhiều thứ triết lý, như là nó hướng vào phong trào dân tộc rất vội vã. Nó nhút nhát. Quần chúng nông dân bị bóc lột nhất và cùng khổ nhất, rất yêu nước. Tuyên truyền tốt trong nông dân và tổ chức tốt trong công nhân nếu chúng ta làm tới được điều đó thì tương lai thuộc về chúng ta. CHƯƠNG TRÌNH HOẠT ĐỘNG 1/ Xuất bản một tờ báo nhỏ tiếng Việt. 2/ Tập hợp những phần tử dân tộc cách mạng. 3/ Cố gắng đưa những thanh niên người bản xứ đi Mátxcơva. 4/ Xây dựng dây liên lạc Mátxcơva - Đông Dương - Pari. HỢP TÁC a/ Điều gì mà Đảng có thể làm thì đã liệt kê trong thư gửi cho nó do Ban phương Đông chuyển. b/ Tổng công hội thống nhất đã hứa làm hết sức mình để 2 hoặc 3 đồng chí người Pháp có thể sang Đông Dương để tổ chức công nhân. c/ Thanh niên cộng sản Pháp phải lợi dụng chủ nghĩa quân phiệt để đưa những thành viên chắc chắn nhất đăng lính vào đội quân thuộc địa để dắt dẫn sự tuyên truyền trong những người bản xứ. 2/ Sự giúp đỡ của Thanh niên cộng sản Trung Quốc là tuyệt đối cần thiết cho sự hoạt động ở Đông Dương. Một cuộc thảo luận giữa những đại biểu của Đảng, của Tổng công hội thống nhất, của Thanh niên và của Ban phương Đông có thể ló ra nhiều ánh sáng khác. Tài liệu viết tay, tiếng Pháp, bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh. ============================ KHÔNG PHẢI CHỦ NGHĨA QUÂN PHIỆT ĐÂU, NHƯNG... Ông Clêmăngxô đã chứng minh rất rành rọt cho thế giới nói chung, và cho người Mỹ nói riêng rằng nước Pháp không phải là một nước quân phiệt, cũng không phải là một nước đế quốc chủ nghĩa, hoàn toàn chẳng phải thế đâu nhé! Thế nhưng ông ácsimbô lại vừa mới làm cho tiêu mất đôi chút cái vẻ mỹ miều của những lời nói của "Ông Cọp", khi ông ácsimbô viết trong bản báo cáo vừa rồi của ông ta về ngân sách thuộc địa rằng: Năm 1914, quân đội chiếm đóng gồm có 1.852 sĩ quan, 17.290 hạ sĩ quan và lính người Âu, 42.099 người bản xứ; lại phải thêm vào số đó 1.979 người trong các đội cảnh vệ bản xứ của Đahômây, Ghinê và Bờ Biển Ngà, hiện nay những đội lính này đã được thay thế bằng những đội quân chính quy. Tổng cộng quân số là 63.220 người. Từ sau chiến tranh, người ta đã phải thiết lập tại các khu vực uỷ trị, Tôgô và Camơrun, những trại lính mà quân số lên tới 1.712 người. Ngoài ra, còn phải thành lập, nhất là tại Tây Phi thuộc Pháp, những đơn vị đặc biệt để tuyển mộ, đăng ký nhập ngũ và huấn luyện số binh lính người bản xứ phục vụ ở Pháp hoặc ở nước ngoài. Các đơn vị đó đã thu hút 2.237 người, trong đó có 271 sĩ quan và hạ sĩ quan người Âu. Sau hết, con số những người bản xứ phục vụ ở Pháp hoặc ở nước ngoài, và do các thuộc địa trực thuộc Bộ Thuộc địa cung cấp, là 45.000 người. Nếu chúng ta nói thêm rằng, chỉ riêng ở Đông Dương, chi phí về quân sự năm 1921, cũng đã hơn 35.600.000 phrăng, trong khi đó ngân sách giáo dục có không đầy 350 nghìn đồng bạc và ngân sách về y tế không đầy 65 nghìn đồng bạc thì sẽ thấy ngay tất cả sự tốt đẹp của chế độ thực dân của cái nước Cộng hoà Pháp rất nhân từ và đã tài giảm quân bị này. Nguyễn Ái Quốc Báo L'Humanité, ngày 28-9-1923. ============================ PHÁT BIỂU TẠI HỘI NGHỊ LẦN THỨ NHẤT QUỐC TẾ NÔNG DÂN Nông dân trong các thuộc địa của Pháp bị hai tầng bóc lột: vừa như những người vô sản, vừa như những người bị mất nước. ở Angiêri, những đất đai màu mỡ được dành cho người Pháp; còn những người nông dân thì bị dồn vào sống trong vùng núi là nơi đất đai cằn cỗi và không thể canh tác được. ở Đông Dương, hễ người Pháp đến là chính phủ cấp cho anh ta cả nhiều làng trọn vẹn. Nhưng người nông dân, không chỉ bần nông mà cả trung nông đều bị bắt buộc phải rời bỏ quê hương của mình hoặc làm đày tớ cho ông chủ người nước ngoài. Thưa các đồng chí, khi các đồng chí được tổ chức lại, các đồng chí cần phải nêu gương cho chúng tôi, giúp đỡ chúng tôi, dang rộng cánh tay anh em đón chúng tôi để chúng tôi cũng có thể bước vào gia đình vô sản quốc tế. Tài liệu tiếng Pháp, bản chụp lưu tại Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng. ============================ PHÁT BIỂU TẠI PHIÊN HỌP THỨ BẢY HỘI NGHỊ LẦN THỨ NHẤT QUỐC TẾ NÔNG DÂN Thưa các đồng chí, Tất cả các đồng chí đều đã nói về tình hình của nông dân trong đất nước các đồng chí. Tôi sẽ không làm tròn bổn phận của tôi nếu có được quyền đến đây với các đồng chí mà tôi lại không nói một đôi lời về tình cảnh của nông dân tại đất nước tôi. Để minh hoạ với các đồng chí tình cảnh của nông dân Đông Dương, tôi phải đưa ra một sự so sánh: một bên là người nông dân Nga và một bên nữa là người nông dân Đông Dương. Nông dân Nga giống như một người ngồi chễm chệ trong chiếc ghế bành, còn nông dân An Nam lại giống như một người bị trói vào một chiếc cột, đầu ngược xuống đất. Nói thế không phải là nói phóng đại đâu, sau đây các đồng chí sẽ thấy rõ. Khi các đồng chí đi qua Hồng trường, các đồng chí thấy có khắc một dòng chữ "Nhà thờ là thuốc phiện của thế giới"; nhưng chúng tôi, nhờ nền văn minh phương Tây mà chúng tôi có cả Nhà thờ lẫn thuốc phiện. Về thuốc phiện, tôi sẽ xin chỉ kể lại với các đồng chí rằng mỗi năm chính quyền Pháp ở thuộc địa đã bán cho dân An Nam gồm 20 triệu người, trên 400 triệu đôla1) thuốc phiện. Và mặt khác, người ta đã tính ra rằng cứ 1.000 ty bán rượu và thuốc phiện thì không có được lấy 10 trường học. Đấy là những sự thật. Bây giờ, tôi xin nói vắn tắt với các đồng chí về chuyện Nhà thờ. Tôi đã nói với các đồng chí rằng những tên thực dân đã tước đoạt người An Nam như thế nào. Bây giờ, tôi xin nói để các đồng chí biết Nhà thờ Kitô đã tước đoạt nông dân như thế nào. Trong cuộc xâm chiếm Đông Dương thì chính những nhà truyền đạo Thiên chúa đã đi do thám để báo cho đội quân chiếm đóng biết những kế hoạch phòng thủ của nước chúng tôi. Cũng chính những nhà truyền đạo đã dẫn đường những đội quân tấn công, cũng chính lại là những nhà truyền đạo đã lợi dụng tình trạng lộn xộn của đất nước để ăn cắp những văn bản chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất của người nông dân này nọ hay của một làng nào đó. Khi hoà bình được lập lại, nông dân trở về thì tất cả ruộng đất đều đã bị các nhà truyền đạo nắm được các văn bản nói trên, chiếm mất. Chính bằng cách đó, mà ở Nam Kỳ những nhà truyền đạo Thiên chúa có được trên một phần tư những đất đai cày cấy được. ở Campuchia, các nhà truyền đạo nắm trên một phần ba ruộng đất; ở Bắc Kỳ, chỉ riêng ở thủ phủ, trong thành phố Hà Nội, các nhà truyền đạo có những bất động sản rộng bao la. Họ có được của cải và chiếm hữu ruộng đất của nông dân không phải chỉ bằng cách đó. Các đồng chí đều biết rằng trong các nước ven biển, nhất là trong những nước ở Viễn Đông, thường xảy ra giông bão và lụt lội làm cho mùa màng thất bát; các nhà truyền đạo lợi dụng những dịp đó để ứng trước tiền cho nông dân với những tỷ suất lãi rất nặng và một thời hạn rất ngắn. Biết rõ ràng làm như vậy thì nông dân không bao giờ có thể trả nợ được, nên các nhà truyền đạo đòi nông dân phải đem ruộng đất ra bảo đảm. Thế là khi đến thời hạn trả nợ, thì toàn bộ ruộng đất của nông dân đều rơi vào tay các nhà truyền đạo. Các đồng chí đã thấy bọn thực dân bóc lột nông dân như thế nào và các giáo sĩ tước đoạt nông dân như thế nào. Bây giờ, còn có những kẻ bóc lột khác nữa, chẳng hạn như Nhà nước. Dù mùa màng có xấu đến mức nào đi nữa, nông dân An Nam vẫn cứ phải đóng thuế; để đóng được thuế, nông dân phải bán mùa màng của mình đi; để khỏi bị bỏ tù (hễ đóng thuế chậm là họ bị bỏ tù), họ phải bán non mùa màng của họ, nghĩa là bán trước khi gặt; họ bán cho bọn lái buôn theo cách ước lượng bằng mắt. Bằng cách đó bọn lái buôn mua được lúa trước khi gặt bằng một giá rất rẻ và sau đó đem bán lại rất đắt. Như vậy là người nông dân An Nam không phải chỉ bị trói vào một chiếc cột như tôi đã trình bày với các đồng chí, mà họ bị đóng đinh câu rút bởi bốn thế lực liên hợp là: Nhà nước, tên thực dân, nhà thờ và tên lái buôn. Chắc là các đồng chí sẽ hỏi rằng tại sao nông dân An Nam không tổ chức nhau lại, không làm như các đồng chí là thành lập hợp tác xã. Chỉ là vì họ không có thể làm như vậy được. Tôi phải nói với các đồng chí rằng chúng tôi bị cai trị bởi một chế độ nô lệ. Chúng tôi không được quyền xuất bản báo. Chúng tôi không được quyền tự do đi lại; chẳng hạn như chúng tôi không thể đi từ Mátxcơva đến Pêtơrôgrát được, chúng tôi phải xin được một tờ giấy thông hành, nếu không họ sẽ bắt giữ và ném chúng tôi vào tù. Cũng vậy, chúng tôi không được quyền hội họp nghĩa là chúng tôi không được quyền họp với nhau trên 4 hoặc 5 người nếu không có một giấy phép đặc biệt của cơ quan cai trị Pháp. Tôi cũng xin nhắc lại rằng các đồng chí đã lên tiếng chống chiến tranh, đòi hoà bình; các đồng chí đã nói đến một chính quyền vô sản và việc lật đổ chủ nghĩa tư bản. Nhưng tất cả những điều các đồng chí nói ở đây sẽ trở thành vô ích, nếu các đồng chí quên mất cái yếu tố quân phiệt thực dân. Các đồng chí đều biết những sự kiện. Trong chiến tranh thế giới, chỉ riêng ở nước Pháp, người ta đã đưa từ các thuộc địa về gần một triệu người bản xứ để tham gia chiến tranh. Trong những năm 1916-1917, người ta đã chở về 2 tỷ tấn ngũ cốc1), trong khi những dân bản xứ ở châu Phi và ở Đông Dương đang chết đói. Thưa các đồng chí, để kết thúc, tôi phải nhắc lại với các đồng chí rằng Quốc tế của các đồng chí chỉ trở thành một Quốc tế thật sự khi mà không những nông dân phương Tây, mà cả nông dân ở phương Đông, nhất là nông dân ở các thuộc địa là những người bị bóc lột và bị áp bức nhiều hơn các đồng chí, đều tham gia Quốc tế của các đồng chí (vỗ tay). Phát biểu chiều 13-10-1923. Tài liệu tiếng Pháp, bản chụp lưu tại Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng. ============================ "CHÍNH SÁCH THỰC DÂN" ANH Chủ nghĩa tư bản Anh, tuy thèm muốn của cải vô tận của Trung Quốc, nhưng vì từ trước đến giờ, vẫn đành chỉ chiếm Hương Cảng37 làm thuộc địa và thực hiện trên nội địa Trung Quốc chính sách mở cửa, một chính sách giúp cho họ có thể bóc lột đất nước này mà không làm cho nhân dân nổi dậy. Ngày nay, đối với họ như thế không đủ nữa. Họ muốn làm hơn thế nữa kia: họ muốn chiếm cả Trung Quốc làm thuộc địa. Lợi dụng chuyện rắc rối ở Lâm Thành38 , và vin cớ bảo đảm an ninh cho đồng bào của mình, đại sứ Anh ở Bắc Kinh vừa mới tiến hành giai đoạn đầu tiên của chính sách thực dân đó. Ông ta bắt đầu từ đường sắt. Đây là những điều ông ta đề nghị với Trung Quốc: 1. Tất cả những con đường xây dựng bằng vốn của Anh, hoặc vật liệu mua của Anh mà hiện nay chưa trả hết, đều sẽ đặt dưới sự kiểm soát của Anh; 2. Đất đai vùng lân cận những con đường đó cũng đều sẽ thuộc phạm vi kiểm soát ấy; 3. Ngoài chính sách đường sắt ra, nước Anh còn có quyền can thiệp vào chính sách đối nội của Trung Quốc; 4. Trong trường hợp xảy ra những vụ xung đột vũ trang giữa các đảng phái chính trị Trung Quốc, người Anh có quyền đồng ý hay từ chối cho đảng phái này hay đảng phái nọ sử dụng những con đường ấy; 5. Ưu tiên được trả dần những số tiền vay mà người Anh đã bỏ ra bằng cách được sử dụng những số thu nhập của ngành đường sắt. Ngoài ra ông ta còn yêu cầu: a) Đặt tại Bộ Giao thông ở Bắc Kinh, một phòng kiểm soát ngành đường sắt, trưởng phòng là một nhân viên người ngoại quốc (nên hiểu: một nhân viên Anh) có toàn quyền đối với tất cả mọi hoạt động của ngành đường sắt trên toàn cõi Trung Quốc; b) Việc quản trị ngành đường sắt cũng phải giao cho các đại diện nước ngoài; c) Tổ chức một đội tuần tra ngành đường sắt dưới sự chỉ huy của các sĩ quan nước ngoài; d) Các chức vụ kế toán và quản trị ngành đường sắt đều phải do người nước ngoài đảm nhiệm. Người Anh đã nắm được thuế muối và thuế quan Trung Quốc, bây giờ họ lại muốn chiếm lấy đường sắt. Khi người ta biết rằng trừ những con đường Nam Mãn Châu, Bắc Kinh - Hán Khẩu và Lũng Hải ra, - tất cả những con đường khác đều đã được xây dựng hoặc bằng vốn của Anh, hoặc bằng vật liệu mua chịu của các hãng buôn Anh, người ta sẽ hiểu rằng kế hoạch đó nếu được thực hiện, thì sẽ làm thiệt hại cho Trung Quốc như thế nào. Tất cả mọi người Trung Quốc, không phân biệt chính kiến, đều phản đối chính sách thực dân trá hình đó. Hội Liên hiệp sinh viên Bắc Kinh đã lên tiếng kêu gọi giai cấp công nhân tất cả các nước hãy dùng ảnh hưởng của mình để ngăn chặn hành động đó, vi phạm tới nền độc lập của nhân dân Trung Quốc. Mong rằng, trước sự đe doạ của chủ nghĩa tư bản Anh, những người con của Trung Quốc sẽ biết đoàn kết với nhau để phản kháng thắng lợi. NGUYỄN ÁI QUỐC Báo La Vie Ouvrière, ngày 9-11-1923. ============================ NHẬT BẢN HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG Những biến cố gần đây đã làm cho cả thế giới chú ý đến Nhật Bản. Người ta nói nhiều về sức mạnh công nghiệp của Nhật, về việc phát triển kinh tế trước kia và sau này của nó. Mọi người biết rằng chủ nghĩa tư bản Nhật đạt được mức phát triển như vậy trong vòng 20-25 năm; để đạt được mức phát triển ấy, các bạn đồng nghiệp của nước Nhật ở phương Tây đã mất tới trên 100 năm. Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nhật, các tổ chức công nhân cũng phát triển với những nhịp độ nhanh chóng. Bên cạnh phong trào vô sản, các phong trào khác có tính chất cách mạng cũng lan rộng. Đó là phong trào Eta. ở đế quốc Mặt trời mọc có một loại dân nổi tiếng dưới cái tên Eta. Về bề ngoài thì Eta không khác gì những người Nhật khác. Nhưng có một câu chuyện hoang đường là người Eta xuất thân từ những bộ lạc nô lệ xưa kia từ nước ngoài kéo vào. Vì vậy, cho nên hiện nay người ta lại đối xử với họ giống như đối xử với tổ tiên họ. Họ buộc phải sống trong những vùng dành riêng cho họ, nơi mà không bao giờ người Nhật được lui tới. Họ không có quyền giao thiệp với nhân dân Nhật. Họ chỉ có quyền quan hệ với người Nhật với tư cách là những người hầu hạ. Họ nhận làm những công việc nặng nhọc và bẩn thỉu nhất. Bẩn thỉu, thấp hèn - đó là người Eta. Người Nhật không được lấy phụ nữ người Eta. Nói tóm lại là họ không có một chút quyền hạn xã hội gì, và số phận của họ làm cho người ta nhớ đến số phận của những đám người "Suđra" ở ấn Độ hay những người da đen ở châu Phi. Người Eta có 3 triệu người. Do ảnh hưởng của những người vô sản đã giác ngộ, những người Eta bắt đầu được thức tỉnh và có tổ chức. Họ thành lập một hội lấy tên là "Xuikhây" ("Bình đẳng"). Mọi người nhiệt tình xin vào hội và năm ngoái hội nghị toàn quốc đầu tiên của hội này được triệu tập. Có 2.500 đại biểu từ khắp nơi trong nước về dự hội nghị. Hội nghị đã nêu khẩu hiệu: "Hoàn toàn bình đẳng". Phương châm của hội nghị: "Việc giải phóng Eta là sự nghiệp của chính người Eta". Những tổ chức tự do và của chính phủ lo lắng trước việc xuất hiện một lực lượng mới nên định nắm lấy nó dưới sự bảo hộ của mình. Nhưng họ đã không thành công. Trong khi tất cả các cánh cửa đều đóng chặt trước mắt họ, thì những người công nhân Eta lại được những người công nhân Nhật có tổ chức đón tiếp một cách hết sức thân tình dựa trên sự bình đẳng hoàn toàn. Họ đã hiểu rõ được sự đón tiếp đó. Vì vậy ngày nay, khi từ chối mọi sự quan tâm giúp đỡ của những người tự do và của chính phủ, những người Eta thực hiện sự nghiệp chung cùng với giai cấp công nhân Nhật Bản. Phong trào lúc đầu với tư cách là cuộc đấu tranh của lớp người riêng lẻ thì hiện nay đã trở thành cuộc đấu tranh giai cấp. Trước khi khai mạc đại hội trong năm nay, những người Eta đã ra một bản kêu gọi "Gửi tất cả những dân tộc ít người, tất cả những người lao động - nạn nhân của tư bản thế giới và chủ nghĩa đế quốc". Trong lời kêu gọi có nói về những nỗi đau khổ đã trải qua và về sự viển vông của những cải cách mà chính phủ đã đưa ra, có nhấn mạnh việc "những người Eta sẵn sàng sát cánh cùng giai cấp công nhân Nhật làm cách mạng xã hội và giải phóng tất cả những người bị bóc lột". Trong cương lĩnh hành động của họ có những điểm đặc trưng chứng tỏ hội có nghị lực và tính kiên quyết: A. Từ chối sự giúp đỡ từ thiện trong đó có sự giúp đỡ của chính phủ. B. Đào tạo cán bộ cho những hoạt động tích cực. C. Thành lập các công đoàn của nông dân. D. Thành lập các chi bộ của hội cho phụ nữ và thanh niên. E. Thành lập các thư viện, báo chí và các cơ quan báo chí khác để phổ biến giáo dục và tuyên truyền tư tưởng bảo vệ quyền lợi của những người Eta. G. Đòi tự do hoàn toàn về chính trị và kinh tế cho những người Eta. Bây giờ chúng ta chuyển sang một lực lượng cách mạng khác - nông dân Nhật. CÔNG NHÂN NÔNG NGHIỆP Khi nói về công nhân nông nghiệp ở Nhật Bản thì cần phải nghiên cứu các tổ chức công nhân nông nghiệp ở phương Tây để so sánh. ở châu Âu có 1.517.000 công nhân nông nghiệp có tổ chức, trong đó 919.000 người tham gia Quốc tế Amxtécđam39 và 598.000 người tham gia Quốc tế đỏ của các công đoàn. ở nước Nga có 270.000 công nhân nông nghiệp có tổ chức được thống nhất trong 8.000 nhóm công đoàn, tham gia vào trong 87 tổ chức công đoàn. Nông dân Nhật chia làm bốn loại: 1. Dixacunô hay những người sở hữu, loại này có 172.241 hộ. 2. Dixacunô loại hai, hay những người sở hữu nhỏ, - 1.507.341 hộ. 3. Khandixacunô: nửa chủ, nửa thợ, - 2.244.126 hộ. 4. Côxacunin, hoặc những người tá điền, - 1.557.847 hộ. Từ năm 1916 đến năm 1922 số lượng Dixacunô đã tăng thêm 7.035 hộ, còn Côxacunin, - thêm 32.858 hộ do sự phân hoá hai nhóm trung gian. Điều đó khẳng định lại một lần nữa tính chất đúng đắn của học thuyết Mác về sự thu hút và vô sản hoá các tầng lớp trung gian. Tổ chức công nhân nông nghiệp của Nhật được thành lập cách đây mới được ba năm, nhưng nó phát triển nhanh và được củng cố. Có hai công đoàn: công đoàn phía Đông và công đoàn phía Tây. Công đoàn phía Đông có trung tâm của mình là Tôkiô, còn phía Tây là Ôxaca và Côbê. Tất cả có 85 chi nhánh các công đoàn, 196 nhóm, tổng cộng tất cả 120 nghìn đoàn viên. Năm 1922 ở công đoàn phía Đông có 15 nghìn đoàn viên, còn công đoàn phía Tây 91 nghìn. Năm nay họ có 18 nghìn đoàn viên công đoàn phía Đông và 102 nghìn đoàn viên công đoàn phía Tây, có nghĩa là số lượng của họ tăng lên 14 nghìn trong một năm. Điều đó có nghĩa là ở Nhật Bản đang xảy ra một quá trình phát triển ngược lại với quá trình phát triển của các tổ chức công nhân nông nghiệp ở các nước châu Âu (trừ Đức và Nga), nơi có số lượng hội viên đang giảm xuống chứ không tăng lên. Như chúng ta đã thấy ở trên, công đoàn phía Tây có số lượng nhiều hơn nhiều công đoàn phía Đông, nhưng nhờ tinh thần tiên tiến của các đoàn viên của mình và nhờ họ có nghị lực nên công đoàn phía Đông có ảnh hưởng lớn hơn công đoàn phía Tây. Hầu như công đoàn phía Đông bao giờ cũng là người đề xướng ra cuộc đấu tranh chống lại chủ. Đặc điểm "chính trị - địa lý" ấy có thể thấy cả trong những công nhân công nghiệp. Công đoàn phía Tây ôn hoà, có số lượng đông bị lôi kéo theo đuôi công đoàn phía Đông tiên tiến có số lượng ít. Những yêu sách cơ bản của công nhân nông nghiệp là xã hội hoá tất cả đất đai canh tác, sách lược phổ biến nhất của cuộc đấu tranh là không đi làm trong thời gian thu hoạch mùa màng. Năm 1920 đã ghi nhận lại được 408 cuộc đình công, và năm 1922 - lên tới 1.398. Vào tháng 1 đã có quyết định thống nhất hai công đoàn này, Công đoàn mới được gọi là "Nikhơnnôminkhai". Việc thống nhất này làm cho giai cấp vô sản nông nghiệp ở Nhật Bản tăng thêm sức mạnh và là một mối lo ngại lớn đối với bọn chủ. NGUYỄN ÁI QUỐC. Báo La Vie Ouvrière, ngày 9-11-1923. In trong sách: Hồ Chí Minh, Những bài viết và nói chọn lọc, tiếng Nga, Nxb. Chính trị quốc gia, Mátxcơva, 1959, tr73-76. Dịch theo bài in trong sách Những bài viết và nói chọn lọc. ============================ TÌNH HÌNH Ở TRUNG QUỐC Cương lĩnh của các sinh viên cách mạng Nguyên nhân của tình hình tồi tệ hiện nay ở Trung Quốc có rất nhiều. Trước hết Trung Quốc bị yếu vì sự mâu thuẫn giữa miền Bắc và miền Nam. Sau đó, tính chất thủ cựu của chủ nghĩa nghị trường bắt chước theo kiểu phương Tây và tham vọng mù quáng cá nhân của chủ nghĩa quân phiệt biểu hiện ở mức độ này hay mức độ khác dựa vào nước ngoài đang phá hoại Trung Quốc. Và cuối cùng là do những cường quốc tư bản chủ nghĩa từng phút một, cố ý gây ra sự rối loạn bên trong để kìm hãm thậm chí cả những cải cách không đáng kể. Thế nhưng rất may mắn là tiếng vang của Cách mạng Nga hình như đã thức tỉnh thế hệ mới của Trung Quốc. Lực lượng trẻ mới ra đời có đầy nhiệt tình và sức sống. Điều này thể hiện đặc biệt rõ rệt nhất là Hội sinh viên cách mạng. Hội có khoảng 100 nghìn hội viên trong cả nước Trung Hoa. Hội xuất bản nhiều tờ báo, mỗi tỉnh có một hoặc hai tờ. Năm 1919, Hội đã khuyên đoàn đại biểu Trung Quốc từ chối ký Hiệp ước Vécxây. Đó là những người tham gia việc tổ chức tẩy chay Nhật Bản. ở Bắc Kinh, sinh viên đã thiêu huỷ những lâu đài xa hoa của hai bộ trưởng bán cho tư bản Nhật, buộc những người này từ chức và có những lời cảnh cáo xác đáng trước đối với họ. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ tư, Hội đã thông qua cương lĩnh chính trị, mà những điểm cơ bản của nó là: Chính sách đối nội. Nghị viện và chính phủ phải thực hiện trung thực ý chí của nhân dân. Hoàn toàn tự do tổ chức, hội họp, ngôn luận và báo chí. Quyền đình công cho công nhân. Địa vị độc lập của toà án. Quan hệ quốc tế. Quyền tự quyết của các dân tộc. Đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Vấn đề phụ nữ. Bình đẳng về giáo dục chính trị và kinh tế cho cả nam và nữ. Thi hành hệ thống trường học thống nhất - tức là thành lập các trường học trong đó con trai và con gái cùng học. Trả công như nhau cho lao động như nhau. Quyền nghỉ ngơi và tiền trợ cấp cho trường hợp đau ốm và sản phụ. Hội ủng hộ tất cả các yêu sách của công nhân. Hội có mục đích: ủng hộ tất cả những yêu sách và mọi phong trào cách mạng của nông dân, công nhân và tiểu thương. Hội kêu gọi tất cả nhân dân lao động và sinh viên tiến hành một cuộc tuần hành chung toàn quốc để tưởng nhớ những người công nhân đường sắt bị tướng Ngô Bội Phu giết chết trong thời gian đình công trên đường sắt Bắc Kinh - Hán Khẩu1). Hội coi việc giúp đỡ công nhân nạn nhân của cuộc đấu tranh, là nghĩa vụ của mình, vạch trần và lên án trước toàn quốc hành động tội ác của chính phủ và bè lũ quân phiệt của nó trong thời gian đình công. Chúng ta cũng nói thêm là Liên đoàn sinh viên còn yêu cầu Trung Quốc nhanh chóng khôi phục quan hệ với nước Nga. Nguyễn Ái Quốc Báo L'Humanité, ngày 4-12-1923. |